(TG) - Bệnh “cuối nhiệm kỳ” được nhắc đến rất nhiều kể từ khi Đảng ta có
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Bệnh
được gọi bằng nhiều tên khác nữa như bệnh “hoàng hôn nhiệm kỳ”,
“hội chứng tuổi 59”, bệnh “chuyến tàu vét cuối cùng”, bệnh “cuối đời”...
Từ “hoàng hôn nhiệm kỳ”
hay “chuyến tàu vét cuối
cùng” được dùng phổ biến
hơn từ khi ông Lê Như Tiến, đại
biểu Quốc hội khóa XIII, Phó chủ
nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh thiếu niên và Nhi đồng
của Quốc hội nói trong phiên
chất vấn của Quốc hội sáng ngày
17-11-2015: “Một số quan chức
Nhà nước thường tăng tốc tham
nhũng cả về tần suất và cường
độ vào thời điểm “hoàng hôn
nhiệm kỳ”, chạy đua nước rút
để thực hiện những chuyến tàu
vét cuối cùng”. Theo ông Lê Như
Tiến “hoàng hôn nhiệm kỳ” hay
“chuyến tàu vét cuối cùng” biểu
hiện ở rất nhiều góc độ như ký
hàng loạt quyết định bổ nhiệm,
đề bạt cán bộ một cách vội vã mà
đằng sau đó chắc chắn có những
động cơ lợi ích nào đó. Kế đến là
ký vội, phê duyệt vội những dự
án lớn mà không thể triển khai
ở nhiệm kỳ này, nhiệm kỳ sau
mới thực hiện thì chắc cũng có
vụ lợi nhất định, hoặc tranh thủ
vơ vét nhiều tài sản công, đất
công, nhà công...
Bệnh “cuối nhiệm kỳ” xuất
phát từ bệnh “nhiệm kỳ”, vốn
được biết đến phổ biến dưới tên
gọi “tư duy nhiệm kỳ”. Người
sớm nhắc đến căn bệnh này
là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng. Tại hội nghị
quán triệt, triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa
XI ngày 10-10-2011, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc
đến “tư duy nhiệm kỳ” như lời
nhắc nhở, cảnh báo đội ngũ cán
bộ, công chức, đảng viên phải
phòng, chống “tư duy nhiệm kỳ”
theo nghĩa tiêu cực. Theo đó,
“tư duy nhiệm kỳ” được hiểu là
lối suy nghĩ, hành động không
đúng, nhằm theo đuổi mục tiêu,
lợi ích trước mắt trong ngắn hạn
để thu lợi nhiều nhất cả về vật
chất và tinh thần cho bản thân,
cho nhóm lợi ích hoặc cho tập
thể mà bỏ qua những mục tiêu,
lợi ích dài hạn chung của tập
thể, cộng đồng, đất nước; hoặc
do trình độ, năng lực hạn chế,
thiếu thông tin, không nắm chắc
tình hình dẫn đến nhận thức
không đúng, không đầy đủ, đề
ra và thực hiện các chủ trương,
nghị quyết, chương trình, quy
hoạch, kế hoạch trong nhiệm kỳ
không sát, không đúng, không
trúng, không đem lại hiệu quả,
thậm chí còn gây ra những hệ lụy xấu cho tập thể, cộng đồng,
đất nước(1).
Theo Từ điển Triết học của
tác giả Cung Kim Tiến, tư duy là
“sản phẩm cao nhất của cái vật
chất được tổ chức một cách đặc
biệt là bộ não, quá trình phản
ánh tích cực thế giới khách
quan trong các khái niệm, phán
đoán, lý luận, v.v..”(2). Đại từ điển
Tiếng Việt của tác giả Nguyễn
Như Ý thì định nghĩa tư duy là
“nhận thức bản chất và phát
hiện ra tính quy luật của sự vật
bằng những hình thức như biểu
tượng, khái niệm, phán đoán,
suy lý”(3). Còn nhiệm kỳ là “thời
hạn thực hiện nhiệm vụ theo
quy định” hoặc “thời hạn làm
nhiệm vụ theo quy định của luật
pháp hoặc điều lệ”(4). “Tư duy
nhiệm kỳ” được hiểu là tư duy
của tập thể, cá nhân theo thời
hạn nhiệm kỳ (của tổ chức đảng,
chính quyền, hội đồng nhân dân,
đoàn thể quần chúng). Trong
nhiệm kỳ đó (thường là 5 năm),
tập thể, cá nhân vạch ra chương
trình, kế hoạch hành động để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
được giao. Theo nghĩa này thì
tư duy nhiệm kỳ không có gì
xấu nhưng “tư duy nhiệm kỳ” được nhắc đến hiện nay là cách
hiểu theo nghĩa tiêu cực như
mua quan bán chức, bán quyền
nhằm trục lợi; tranh thủ trục lợi
trong khi đương chức, đương
quyền, lộ liễu và thô thiển nhất
là giai đoạn cuối nhiệm kỳ.
“Tư duy nhiệm kỳ” được hiểu là lối suy nghĩ, hành động
không đúng, nhằm theo đuổi mục tiêu, lợi ích trước mắt trong
ngắn hạn để thu lợi nhiều nhất cả về vật chất và tinh thần cho
bản thân, cho nhóm lợi ích hoặc cho tập thể mà bỏ qua những
mục tiêu, lợi ích dài hạn chung của tập thể, cộng đồng, đất nước;
hoặc do trình độ, năng lực hạn chế, thiếu thông tin, không nắm
chắc tình hình dẫn đến nhận thức không đúng, không đầy đủ,
đề ra và thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chương trình, quy
hoạch, kế hoạch trong nhiệm kỳ không sát, không đúng, không
trúng, không đem lại hiệu quả, thậm chí còn gây ra những hệ lụy
xấu cho tập thể, cộng đồng, đất nước. |
Lênin trong tác phẩm Bàn về
thuế lương thực(5) cho rằng, “tư
duy nhiệm kỳ” là căn bệnh dẫn
đến chệch hướng mục tiêu của
giai cấp công nhân: “Vì đi theo
một con đường khác có nghĩa là
đặt lợi ích phường hội của công
nhân lên trên lợi ích giai cấp
của họ; có nghĩa là nhìn lợi ích
trước mắt, lợi ích nhất thời, lợi
ích cục bộ của công nhân mà hy
sinh lợi ích của toàn thể giai cấp
công nhân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm đề cập đến bệnh “nhiệm
kỳ” dưới tên gọi là “bệnh cận
thị”. Người phê phán những cán
bộ, đảng viên “không trông xa,
thấy rộng. Những vấn đề to tát
thì không nghĩ đến mà chỉ chăm
chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ việc
tăng gia sản xuất, việc tiếp tế bộ
đội thì không lo đến mà chỉ lo
thế nào để lợi dụng cơm cháy
và nước gạo trong các bộ đội.
Những người như vậy, chỉ trông
thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà
không thấy sự lợi hại to lớn”(6).
Nguyên nhân của “tư duy nhiệm
kỳ”, theo Người là đều do chủ
nghĩa cá nhân mà ra, nó như
một thứ vi trùng độc hại sinh ra
hàng trăm thứ bệnh, trong đó
có bệnh “nhiệm kỳ”. Cho nên,
thang thuốc hay nhất để chữa
là thông qua “tự phê bình và
phê bình”, có như thế Đảng mới
chóng phát triển, sự nghiệp cách
mạng mới thành công. Theo
Người, để chữa “tư duy nhiệm
kỳ” thì “việc gì cũng phải từ việc
dễ đến việc khó, từ việc gấp đến
việc hoãn, từ việc ít tốn tiền đến
việc tốn nhiều tiền. Nói tóm lại:
kế hoạch phải thiết thực, phải
làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp
mặt, to tát, kể hàng triệu người
nhưng không thực hiện được”.
Có thể nhận diện người lãnh
đạo mang “tư duy nhiệm kỳ”
trên các biểu hiện sau đây:
Một là, thể hiện tầm nhìn
ngắn hạn trong các nghị quyết,
chương trình, dự án, kế hoạch,
chỉ nhằm làm rõ dấu ấn cá nhân
lãnh đạo trong nhiệm kỳ đó mà
có hại cho các nhiệm kỳ sau.
Hai là, tư tưởng thể hiện tính
vụ lợi, hẹp hòi, cục bộ, cá nhân
chủ nghĩa hoặc có tư tưởng cầu
an, ngại va chạm, “chợ chiều,
cuối vụ”.
Ba là, hành động không phù
hợp thực tế, bất chấp quy luật
khách quan, trái với quy định
của cấp trên nhưng có lợi cho
cá nhân hoặc nhóm người; gây
thiệt hại cho lợi ích chung của
cộng đồng, của xã hội; lách quy
định của Đảng, lách luật.
Những biểu hiện trên thể
hiện rõ vào giai đoạn sắp hết
nhiệm kỳ, chuyển sang bệnh
“cuối nhiệm kỳ”. Lúc này, người
mắc bệnh “cuối nhiệm kỳ” có
biểu hiện phê duyệt, thông
qua quyết định đầu tư những
chương trình, kế hoạch, dự án,
công trình không hiệu quả hoặc
hiệu quả thấp; quyết định điều
chuyển, bổ nhiệm, đề bạt ồ ạt
cán bộ; thành lập mới hoặc chia
tách tổ chức, biên chế thiếu cơ
sở khoa học, không thiết thực để
thu lợi cho cá nhân, để lại nhiều
hậu quả cho nhiệm kỳ sau gánh
chịu. Trong công tác tuyên giáo,
bệnh “cuối nhiệm kỳ” của người
lãnh đạo thể hiện ở sự buông
lỏng lãnh đạo, không còn thiết
tha tiến hành các giải pháp, biện
pháp, chương trình, việc làm
nhằm xây dựng yếu tố chính trị
- tư tưởng trong cơ quan, đơn vị,
địa phương; không còn coi trọng
xây dựng đoàn kết thực sự; áp
đặt hoặc tác động công tác tuyên
giáo, báo chí hướng vào tô hồng
thành tựu, đề cao vai trò cá nhân
lãnh đạo. Phương châm ưa thích
trong công tác tuyên giáo của
người mắc bệnh “cuối nhiệm
kỳ” trong giai đoạn này là 6V,
bao gồm “vuốt ve, vỗ về, vui vẻ”.
Người mắc bệnh “cuối nhiệm
kỳ” đương nhiên phải là người
có chức quyền, khi chuẩn bị nghỉ
hưu theo quy định hoặc biết chắc
chắn là hết nhiệm kỳ sẽ không
đủ điều kiện được bổ nhiệm lại
hoặc không đủ tuổi công tác để
tái cử khóa tới thì tranh thủ thời
gian còn lại để chăm lo, vun vén
lợi ích cho bản thân, gia đình
với phương châm tranh thủ
vơ vét; đồng thời, tìm mọi cách
“chạy” để được nâng lương,
tặng danh hiệu, huân chương,
khen thưởng sớm nhằm cầu an,
hưởng lạc trước khi nghỉ công
tác. Người có thể biết rõ bệnh của
họ lại thường là cấp phó, những
người vốn được quy hoạch để
thay thế người đứng đầu. Những
người này lại mắc bệnh mà Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc gọi là
“nín thở chờ bóp cò”. Vì muốn
“giữ hòa khí”, tạo thuận lợi cho
con đường tiến thân của mình
trong nhiệm kỳ tới nên thường
đồng lõa, “dễ mình, dễ ta”, nể
nang, né tránh, ngại va chạm.
Thậm chí, trong nhiều trường
hợp, người mắc bệnh “cuối
nhiệm kỳ” là do những người
mắc bệnh “nín thở chờ bóp cò”
dung túng, nuôi dưỡng.
Trong sách “Tư duy nhiệm
kỳ” và “bệnh thành tích” trong
công tác xây dựng Đảng và quản
lý Nhà nước hiện nay”, do tác giả
Cao Văn Thống chủ biên đã đề
cập: “Một số người quan niệm,
người ta ai cũng có số, làm việc
gì cũng có giá, thời vận đã đến
thì không thể nằm im chờ đợi.
Thời nay không có chỗ cho
những kẻ “há miệng chờ sung”,
phải tác động cho vận may mau
đến, không gì nhanh bằng năng
lui tới nhà sếp, quà cáp phải
chăng, chân quê là không xong,
dưới âm phủ người ta còn tiêu
đô la, nhà lầu, ô tô, máy bay nữa
là trần gian. Không làm gì giàu
nhanh bằng làm quan. Có cương
vị, quyền thế rồi thì thu lại mấy
hồi. Giá cả thì đã có mặt bằng
rồi, tính bình quân bằng tổng
thu nhập một năm của chức vụ
mới (lương cộng bổng lộc). Cứ
như thế, đường dây thuộc diện
quy hoạch muốn sớm bổ nhiệm
cũng phải chạy. Nếu chức vụ
quan trọng qua nhiều cửa thì
giá khác. Nếu chức vụ có nhiều
người được quy hoạch thì giá
đặc biệt. Loại người như trên hà
hơi, tiếp sức, nuôi dưỡng những
người có chức quyền vướng vào
“tư duy nhiệm kỳ”(7).
Qua kiểm điểm tự phê bình
và phê bình thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI
về xây dựng Đảng, một số ban
thường vụ tỉnh ủy, thành ủy
đã nhận trách nhiệm để xảy ra
tình trạng một số đồng chí tỉnh
ủy viên, lãnh đạo sở, ngành
ở những năm cuối nhiệm kỳ,
chuẩn bị nghỉ hưu mắc “bệnh
cuối đời”, trì trệ, sao nhãng công
việc, tranh thủ thu vén cá nhân,
tranh thủ điều động, bổ nhiệm
người thân không đủ tiêu chuẩn.
Báo chí cũng đã đề cập việc bổ
nhiệm ồ ạt cán bộ của nguyên
Tổng Thanh tra Chính phủ Trần
Văn Truyền. Trong thời gian
ngắn trước khi nghỉ hưu, ông
Truyền đã bổ nhiệm ồ ạt 60 cán
bộ cấp vụ; trong đó, nhiều cán bộ
năng lực yếu kém, không hoàn
thành nhiệm vụ, có cán bộ vi
phạm pháp luật làm dư luận bức
xúc. Điều đáng trách là người kế
nhiệm ông Trần Văn Truyền là
ông Huỳnh Phong Tranh lại tiếp
tục để xảy ra sai sót khi bổ nhiệm
hàng chục cán bộ cấp phòng, cấp vụ vào cuối nhiệm kỳ của mình.
Qua triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI
và XII, đảng bộ các địa phương
đã phát hiện, xử lý hàng chục
vụ việc mắc bệnh “cuối nhiệm
kỳ” mà chủ yếu nhất vẫn là bổ
nhiệm ồ ạt cán bộ, phê duyệt các
dự án nhằm trục lợi, đi du lịch
và đi học nước ngoài, “nâng đỡ
không trong sáng” các nhóm lợi
ích “đồ đệ, hậu duệ, tiền tệ”.
Ba năm qua, thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, toàn
bộ hệ thống chính trị đã tiến
hành đồng bộ các nhóm giải
pháp với quyết tâm chính trị rất
cao, thu được hiệu quả rõ rệt,
củng cố niềm tin trong nhân
dân. Đó cũng là cơ sở để chúng
ta tin tưởng rằng, căn bệnh
“cuối nhiệm kỳ” sẽ không có
đất hoành hành trong giai đoạn
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta “về đích” trong thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng.
*
2019-2020 là giai đoạn về đích trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Theo quy luật, đây cũng là giai đoạn bệnh “cuối nhiệm kỳ” xuất hiện. Để khắc phục căn bệnh này, mọi tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị cần quan tâm đến những giải pháp sau đây:
Một là, kiểm soát quyền lực. Trong thời gian vừa qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành rất nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách nhằm thực hiện “nhốt quyền lực vào chiếc lồng cơ chế”. Người mắc bệnh “cuối nhiệm kỳ” là những người có chức quyền, cho nên kiểm soát được quyền lực thì bệnh không thể phát tác. Việc thực hiện các nghị quyết mà Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 chính là giải pháp quan trọng nhất để kiểm soát quyền lực, phòng, chống bệnh “cuối nhiệm kỳ”.
Hai là, ngăn ngừa và hạn chế tối đa chế độ “xin cho”, “duyệt cấp”. Mặc dù Đảng, Nhà nước rất nỗ lực hạn chế chế độ “xin cho”, nhưng thực tế chế độ này vẫn còn rất nhiều trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị. Phải có quy định và kiểm soát chặt chẽ vấn đề này trong giai đoạn “về đích” của mỗi nhiệm kỳ.
Như đại biểu Lê Như Tiến đã từng đề xuất: “Chính phủ phải có quy định cụ thể, trước 3-6 tháng nghỉ hưu, cán bộ lãnh đạo không được ký quyết định đề bạt bổ nhiệm, không được ký quyết định về đầu tư các dự án lớn mà nhiệm kỳ đã sắp mãn nhiệm, “hoàng hôn nhiệm kỳ” rồi ký cũng không thực hiện được, mà khả năng phần trăm (%) chảy vào túi của anh thôi. Đã ký các hợp đồng, dự án đầu tư lớn phải để nhiệm kỳ sau ký, để họ có thời gian cân nhắc và tự chịu trách nhiệm”. Tháng 11-2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ra chỉ thị siết chặt kỷ luật, kỷ cương quản lý vốn đầu tư công và sử dụng ngân sách nhà nước. Thực hiện nghiêm chỉ thị này là một biện pháp để khắc phục bệnh “cuối nhiệm kỳ”.
Ba là, tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”, bao gồm nhóm giải pháp về nhận thức và công tác tư tưởng về tự phê bình và phê bình; nhóm giải pháp về tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách; nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ, thi đua khen thưởng; nhóm giải pháp về phát huy quyền làm chủ của nhân dân; nhóm giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và quản lý, điều hành của Nhà nước; nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nguyễn Hồng Hải
(Bài đăng TCTG số 3/2019)
_______________________________________
(1) Cao Văn Thống: Nhận diện “tư
duy nhiệm kỳ” trong công tác cán
bộ và giải pháp phòng, chống, Tạp
chí Cộng sản, 26-12-1016.
(2) Cung Kim Tiến: Đại từ điển
Triết học, Nxb. Văn hóa -Thông
tin, H, 2001, tr. 1295.
(3) (4) Nguyễn Như Ý: Đại từ điển
Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông
tin, H, 1998, tr.1756, 1250.
(5) Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ.
H.1978, t.43, tr.263).
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự Thật, H,
2011, t.5, tr. 89.
(7) Cao Văn Thống chủ biên: “Tư
duy nhiệm kỳ” và “bệnh thành
tích” trong công tác xây dựng
Đảng và quản lý Nhà nước hiện
nay, Nxb. Lý luận Chính trị, H,
2016, tr.70).