Ý kiến chuyên gia đánh giá cao những nỗ lực cải cách vừa qua của Chính
phủ và tin rằng trong 5 tới 10 năm tới, hệ thống thể chế kinh tế của
Việt Nam sẽ hoàn chỉnh, trong bối cảnh CPTPP đã chính thức có hiệu lực.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khẳng định điều này khi trả lời phỏng
vấn về những cơ hội và thách thức của Việt Nam
trong kỷ nguyên CPTPP và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
CPTPP TẠO VỊ THẾ KHÁ THUẬN LỢI CHO VIỆT NAM TRONG CÁC QUAN HỆ KHÁC
- Đã có rất nhiều phân tích, đánh giá từ nhiều phía khác nhau về CPTPP. Cá nhân bà đánh giá thế nào?
Bà Phạm Chi Lan: Năm 2009, Việt Nam bắt đầu tham gia đàm phán TPP với tư cách quan sát
viên, sau đó quyết định đàm phán chính thức từ năm 2010 với những nỗ
lực vô cùng to lớn, nhất là sau khi Mỹ quyết định rút khỏi TPP, Việt Nam
càng chứng tỏ được sự cố gắng, tích cực của mình để có được CPTPP.
Tôi cho rằng việc tham gia đàm phán TPP và CPTPP là một trong những
quyết định tốt nhất, đúng đắn, sáng suốt nhất của Việt Nam. Khi bắt đầu
đàm phán TPP, chúng ta đã có hai năm là thành viên của WTO, nhưng chúng
ta cũng hiểu đó chỉ là bước phát triển theo bề rộng để rồi từ nền tảng
WTO với những nguyên tắc hết sức cơ bản, chúng ta có thể nâng tầm hội
nhập cao hơn.
Ai cũng biết, một mong muốn lớn của chúng ta trong TPP là có thị
trường Hoa Kỳ rộng mở với những nguyên tắc làm ăn lâu dài trên cơ sở
bình đẳng hơn, mang lại lợi ích nhiều hơn cho cả hai bên. Nhưng ngay cả
khi Hoa Kỳ rút ra, những lợi ích đó tuy có phần bớt đi nhưng về cơ bản
vẫn còn với các thành viên còn lại.
Đồng thời, khi Hoa Kỳ rút ra, các nước còn lại cũng bớt đi một số sức
ép phải chấp nhận một số điều kiện khá khó của Hoa Kỳ. Như 22 điều kiện
chưa thực hiện ngay trong CPTPP hầu hết đều liên quan tới sở hữu trí
tuệ, tức là phần Hoa Kỳ đòi hỏi khắc nghiệt nhất, các nước khó chấp
nhận nhất và phải nhượng bộ nhiều nhất.
Tuy nhiên, các nước cũng kỳ vọng về lâu dài Hoa Kỳ có thể tham gia
trở lại vì lợi ích của chính họ và sẽ có các nền kinh tế khác tham gia
CPTPP.
Là thành viên sáng lập CPTPP, Việt Nam có quyền chấp nhận hay không
chấp nhận các nước khác tham gia. Các nước tham gia sau cũng không có
quyền áp đặt quá nhiều các điều kiện mới của họ mà phải chấp nhận các
điều kiện của Hiệp định. Do đó, CPTPP tạo thành một vị thế khá thuận lợi
cho Việt Nam trong quan hệ thương mại tương lai với các đối tác quan
trọng khác.
Bên cạnh đó, CPTPP và TPP trước đó đều là một kênh tạo thuận lợi rất
lớn cho Việt Nam trong đàm phán FTA với EU. Việt Nam là nước thứ hai
trong Đông Nam Á mà EU lựa chọn đàm phán FTA, sau khi họ đã có FTA với
nước tiên tiến nhất khu vực là Singapore. Sau quá trình đàm phán không
mấy khó khăn với Singapore, tôi được biết họ lúc đó đã có những lựa chọn
khác, nhưng cuối cùng họ chọn Việt Nam. Một trong những lý do, theo
tôi, là Việt Nam đã tham gia đàm phán TPP. Chúng ta đã tận dụng được cơ
hội từ TPP và CPTPP để thúc đẩy đàm phán với EU.
Với CPTPP và EVFTA, có thể nói các kênh hội nhập quốc tế của Việt Nam
đã mở ra một cách rất cơ bản để tạo điều kiện Việt Nam thực hiện chiến
lược lâu dài của mình là tăng trưởng bền vững dựa trên đổi mới sáng tạo,
dựa vào công nghệ, thúc đẩy năng suất, nâng cao năng lực cạnh tranh và
cải thiện chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và các ngành, các doanh
nghiệp.
Cả hai Hiệp định này cũng đều chứa đựng những cam kết cao về cải cách
thể chế kinh tế, vừa là động lực vừa là áp lực cho Việt Nam cải cách.
Các cam kết này vượt trội hơn rất nhiều so với những cái chúng ta đang
có, nhưng chúng hoàn toàn phù hợp với định hướng dài hạn của Việt Nam về
đổi mới thể chế. Việt Nam đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược, trong
đó khâu đột phá số 1 là thể chế.
Thời gian qua, chúng ta đã cố gắng rất nhiều trong lĩnh vực này nhưng
tất cả những cố gắng vẫn chưa đạt được những chuyển biến mạnh và triệt
để như chúng ta mong muốn. Với các chuẩn rất cao trong các Hiệp định
này, tôi tin rằng trong 5 năm và tối đa 10 năm tới, hệ thống thể chế
kinh tế của Việt Nam sẽ là một hệ thống hoàn chỉnh như mục tiêu đã đề
ra, để nền kinh tế có thể phát triển vững chắc và bao trùm.
NỀN TẲNG NỘI LỰC VÀ TƯ DUY ĐỀU ĐÃ KHÁC
- Nhìn lại 12 năm Việt Nam là thành viên chính thức WTO, theo bà,
đâu là những bài học quan trọng nhất mà chúng ta có thể áp dụng trong kỷ
nguyên CPTPP và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới?
Bà Phạm Chi Lan: Tham gia WTO cũng là một quyết định lớn của Việt Nam với một quá
trình khá gian nan qua 12 năm đàm phán. Cái khó của chúng ta khi đó là
mới tiến hành đổi mới được khoảng 10 năm, hệ thống kinh tế thị trường
chưa hình thành đầy đủ, hệ thống kế hoạch hóa tập trung vẫn tồn tại song
song, WTO khó lòng chấp nhận nhiều quy định của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2002-2006, đẩy mạnh đàm phán WTO, Việt Nam
đã tăng tốc trong việc sửa đổi và xây dựng các luật mới, mỗi năm khoảng
25-26 luật thay vì 5-6 luật như các năm trước đó. Quá trình này đều dựa
trên các nguyên tắc WTO, tức là nội luật hóa các quy định của WTO. Đó
cũng là giai đoạn mà Việt Nam vừa đạt được tăng trưởng GDP bình quân
cao, lên tới trên 7%, vừa giữ được ổn định vĩ mô. Đó là nền tảng tốt để
chúng ta vững tâm tham gia WTO, nhưng không may là ngay sau đó, cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra vào năm 2008.
Và dù cơ hội của chúng ta ở nhiều thị trường không được cao như kỳ vọng, nhưng ở một số thị trường thì cơ hội vẫn cực lớn.
Cũng nhờ có nền tảng WTO, chúng ta mới có Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam-Nhật Bản vào năm 2008, Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện
Việt Nam – EU với EU vào năm 2010. Có thể nói, WTO đã tạo nền tảng để
Việt Nam làm sâu sắc hơn các quan hệ song phương và kể cả việc tham gia
đàm phán TPP.
Tuy nhiên, nhìn lại thì có thể thấy, chúng ta vẫn chưa tận dụng được
tốt nhất, chưa tận dụng được hết các cơ hội. Trước hết là cơ hội cải
cách thể chế, chúng ta nội luật hóa rất nhiều các quy định của WTO,
nhưng lại có những giai đoạn mà chính sách đi vào cuộc sống chưa đủ
nhanh, chẳng hạn các quy định của WTO về doanh nghiệp nhà nước. Có thể
thấy trong nhiều nguyên nhân dẫn tới những vấn đề của khối doanh nghiệp
nhà nước, có nguyên nhân do có những giai đoạn chúng ta không thực hiện
đầy đủ các quy định của WTO về lĩnh vực này.
Dù lợi ích chưa quá cao như kỳ vọng, nhưng những bài học từ WTO là hết sức có ý nghĩa cho giai đoạn hiện tại.
So với thời kỳ gia nhập WTO, tôi tin là nền tảng của chúng ta ngày
nay đã tốt hơn, vững chắc hơn, kể cả về nội lực của nền kinh tế và cả tư
duy về kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước, về vai trò của doanh
nghiệp tư nhân và nhà nước. Rồi nhận thức của chúng ta về khoa học và
công nghệ, khi năm 2018 đã ghi nhận hàng loạt dấu ấn về các quyết sách
của Chính phủ trong thúc đẩy công nghệ cao.
Có thể nói từ 2016 trở lại đây, các định hình chính sách ngày càng
rõ, tạo nền tảng cho chúng ta phát triển trong giai đoạn mới.
NỖ LỰC LỚN VÀ THÀNH TỰU ĐÁNG KỂ TRONG 3 NĂM QUA
- Có những ý kiến cho rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ kỹ lưỡng cho CPTPP, quan điểm của bà như thế nào?
Bà Phạm Chi Lan: Trong nhiệm kỳ Chính phủ mới, đã có rất nhiều nỗ lực được dấy lên,
trước hết là khắc phục các khiếm khuyết của nền kinh tế, như doanh
nghiệp nhà nước phải thoái vốn đầu tư ngoài ngành, đẩy mạnh cổ phần hóa…
và có nhiều việc Chính phủ đã cương quyết hơn trong công tác này.
Hiện Chính phủ đã tập trung nhiều hơn vào việc kiểm soát các doanh
nghiệp nhà nước, việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp chứng tỏ chúng ta đã hiểu rõ hơn nên xử sự với doanh nghiệp nhà
nước như thế nào trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thủ tướng đã tuyên bố là Nhà nước không bán bia, bán sữa, đó là
một thông điệp hoàn toàn đúng đắn, phù hợp kinh tế thị trường, để doanh
nghiệp nhà nước tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi.
Gắn với đó là nỗ lực rất lớn về cải thiện môi trường kinh doanh, quá
trình này ngày càng làm được nhiều việc hơn, sâu sát hơn với đời sống
thực tế của doanh nghiệp. Cuộc tổng kết mới đây của VCCI về dòng chảy
pháp luật kinh doanh 2018 đã ghi nhận các con số kỷ lục về các văn bản
pháp quy được ban hành theo hướng cắt giảm các điều kiện kinh doanh, thủ
tục hành chính. Tôi nghĩ đây là cố gắng nổi trội của Chính phủ để giúp
nền kinh tế tập trung nguồn lực cho các doanh nghiệp có khả năng sử dụng
tốt nhất.
Đảng, Nhà nước cũng đã liên tục có nghị quyết, quyết định khẳng định
vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của
nền kinh tế. Đó là cách hành xử đúng và chắc chắn sẽ có kết quả tốt.
Năm 2018 cũng đánh dấu một cột mốc phát triển quan trọng của các
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam. Có những doanh nghiệp từ bất động sản
đã mở dần ra đa ngành theo năng lực của họ, đi vào công nghiệp, thậm chí
công nghiệp ô tô – một ngành cạnh tranh rất lớn, hoặc đi vào phát triển
công nghệ cao. Hoặc các doanh nghiệp tư nhân làm các công trình hạ tầng
lớn với thời gian ngắn và số vốn rất khiêm tốn, điều đó chứng tỏ hiệu
quả khu vực tư nhân và sự trưởng thành của họ, cũng như độ chín muồi của
nền kinh tế.
Định hướng nữa là phát triển công nghệ. Ngay từ năm 2016, Chính phủ
đã đưa ra định hướng quốc gia khởi nghiệp, với các chương trình chính
sách hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Việc tái cơ cấu các ngành
cũng dựa trên hướng đổi mới sáng tạo, đưa công nghệ vào, như trong lĩnh
vực nông nghiệp đã có cải thiện khá rõ nét nhờ hướng tiếp cận này. Như
vậy, thay vì dựa vào quá nhiều vốn hay lao động giá rẻ, định hướng phát
triển công nghệ đã cho ra những thành quả bước đầu và cho chúng ta niềm
tin đây là hướng đi đúng. Có thể nói năm 2018 ghi nhận hàng loạt dấu ấn
về các quyết sách của Chính phủ trong thúc đẩy công nghệ cao.
Tất nhiên đổi mới, phát triển công nghệ là quá trình gian nan lắm,
nhiều nước đều muốn phát triển công nghệ nhưng có phải ai khát khao cũng
làm được đâu? Còn nhiều việc phải làm lắm nhưng tôi tin chúng ta sẽ
ngày càng làm tốt hơn, nhất là với sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân
và lực lượng khoa học công nghệ của người Việt ở nước ngoài. Như trong
năm ngoái, lần đầu tiên Chính phủ đã kêu gọi được 100 nhà khoa học Việt
Nam ở nước ngoài về nước tham gia Mạng lưới đổi mới sáng tạo. Cùng với
đó là sự hưởng ứng của các đối tác quốc tế, như tôi được biết trong các
chuyến thăm vừa qua của Thủ tướng tới Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, đã có rất
nhiều đề xuất đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Cùng với đó là những nỗ lực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Lãnh
đạo Đảng, Nhà nước đã hết sức năng động trong các mối quan hệ quốc tế,
nhờ đó vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng lên, mở ra giai đoạn hội nhập
quốc tế cao hơn, sâu hơn, mang lại những thay đổi thực chất cho nền
kinh tế Việt Nam cũng như những cơ hội mới cho Việt Nam phát triển.
Cuối cùng, phải kể đến những cố gắng thúc đẩy cải cách trên các lĩnh
vực khác như cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải cách bộ máy và
đặc biệt là cố gắng đẩy mạnh phòng chống tham nhũng. Cải cách thể chế và
chống tham nhũng là rất quan trọng, hai việc đó gắn liền với nhau, tham
nhũng chính là lực cản cải cách và muốn chống tham nhũng thì phải cải
cách thể chế.
Theo tôi, đó là những thành tựu rất đáng kể của Chính phủ trong thời
gian vừa qua. Trong 3 năm của nhiệm kỳ 5 năm, chúng ta đã làm được rất
nhiều việc, tất nhiên không phải việc gì cũng vẹn tròn, nhưng tôi tin
rằng những bài học kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta thành công trong cả
nhiệm kỳ và chuẩn bị tốt cho giai đoạn mới, góp phần thực hiện mong muốn
từ lâu của chúng ta là đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển theo
chiều sâu./.
Hà Chính (VGP) (thực hiện)