“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng
ta phải đứng lên!” Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh như lời hịch của non sông âm vang trong tâm trí của người dân
Thủ đô Hà Nội cũng như nhân dân cả nước. Cuộc tổng giao chiến đầu tiên
giữa nhân dân ta với quân viễn chinh Pháp bắt đầu từ Thủ đô Hà Nội.
Sau này nhìn lại,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Những ngày đầu toàn quốc kháng
chiến, nhân dân Hà Nội đã làm nên một điều mà theo nhiều nhà lý luận
quân sự kinh điển thì khó mà làm được”. (Võ Nguyên Giáp – Toàn tập Hồi
ký NXB QĐND 2006 tr.385). Đó là do hoàn cảnh đặc biệt, theo thỏa thuận
giữa đồng minh với sự chấp thuận của Chính phủ ta, quân Pháp được vào
miền Bắc làm nhiệm vụ tiếp phòng thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch rút
về nước. Lúc này những đơn vị viễn chinh Pháp đã có mặt ở Hà Nội cũng
như ở nhiều thành phố, thị xã trên miền Bắc. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp
và Bộ Tổng tham mưu đã sớm nghĩ tới việc chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Hà
Nội và các thành phố khác. Bộ Tổng tham mưu tập trung nghiên cứu cách
đánh trong thành phố, cách đánh xe tăng thiết giáp, cách phá hoại đường
xá.
Trung tuần tháng 11-1946, sau khi rời nước Pháp về nước, Bác Hồ trong
một buổi làm việc, hỏi Võ Nguyên Giáp: “Nếu vạn nhất không tránh được
chiến tranh thì Hà Nội có thể giữ trong bao lâu?”. Võ Nguyên Giáp đáp:
“Phải cố giữ ít nhất là nửa tháng” (Sau này quân và dân Hà Nội đã giữ
được hai tháng).
Với tư cách là người được Đảng phân công phụ trách công tác quân sự, Võ
Nguyên Giáp thường xuyên làm việc với Bộ Tổng tham mưu và Bộ Chỉ huy Mặt
trận Hà Nội về kế hoạch tác chiến cho Thủ đô Hà Nội và chung cho các
thành phố khác. Cuối tháng 11, trong một cuộc họp của Thường vụ Trung
ương Đảng với Bộ Chỉ huy và Ủy ban Bảo vệ chiến khu đặc biệt Hà Nội (Khu
11) mới thành lập, có mặt các đồng chí Vương Thừa Vũ - Chỉ huy trưởng,
Trần Quốc Hoàn - phái viên của Trung ương theo dõi mặt trận Hà Nội,
Nguyễn Văn Trân – Chủ tịch Ủy ban bảo vệ… Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp
trình bày nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô theo chỉ thị của Bác Hồ và Thường vụ
Trung ương Đảng:
1. Phải tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quân địch, giam chân chúng
càng lâu càng tốt tại Hà Nội, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào chiến
tranh.
2. Đi đôi với tiêu diệt địch, phải giữ gìn lực lượng ta. Theo dõi sát
tình hình mặt trận để lúc cần thì chủ động rút lực lượng ra ngoài cùng
với toàn quân toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài.
3. Thủ đô Hà Nội phải nêu cao tinh thần anh dũng và sáng tạo chiến đấu,
làm gương cho cả nước, đoàn kết chặt chẽ giữa bộ đội, tự vệ chiến đấu,
tự vệ thành, lực lượng công an. Đoàn kết và giúp đỡ đồng bào chưa kịp
tản cư và ngoại kiều.
Từ những đặc điểm địch, ta tại Thủ đô và trên cả nước, Tổng chỉ huy Võ
Nguyên Giáp nêu lên biện pháp tác chiến chủ yếu là: “Sử dụng lực lượng
nhỏ, triệt để lợi dụng địa hình địa vật ở từng khu phố, dựa vào những
nhà có kiến trúc kiên cố, xây dựng nhiều chướng ngại vật trên các đường
phố, đánh địch bằng mọi hình thức, tránh tung lực lượng vào những trận
quyết chiến lớn, gây khó khăn lúng túng cho địch bằng nhiều chiến thắng
nhỏ”. Sau khi suy nghĩ cân nhắc kỹ, Bộ chỉ huy Khu 11 trình bày kế hoạch
“Trong đánh ngoài vây” theo cách nói của đồng chí Vương Thừa Vũ là
“trùng độc chiến”. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp tán thành kế hoạch này,
một kế hoạch “nội công ngoại kích” gây cho địch nhiều lúng túng, phải
đối phó với cả hai mặt bên trong và bên ngoài, đồng thời bảo đảm tính cơ
động của bộ đội ta, không bị cố định trong những phòng tuyến cứng nhắc.
Trung tuần tháng 12-1946, Võ Nguyên Giáp báo cáo với Bác Hồ: “Có thể
giữ Hà Nội từ một tháng trở lên”.
Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp quyết định nổ súng vào 20h ngày 19-12-1946.
Điều bất ngờ đối với quân đội viễn chinh Pháp là một đội quân non trẻ
trang bị yếu kém lại dám nổ súng trước vào quân đội viễn chinh. Đó là
lợi thế duy nhất mà ta giành được khi khởi đầu cuộc toàn quốc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Đúng 20h03 ngày 19 tháng 12 năm 1946. Đèn
điện Hà Nội phụt tắt. Đại bác từ pháo đài Láng gầm lên. Liên khu 1 là
trọng điểm, tiêu biểu nhất cho cuộc chiến đấu ở Thủ đô. Tết Đinh Hợi
(1947) mở đầu cho nhiều cái Tết tiếp theo trong kháng chiến. Tiếng súng ở
mặt trận đã thay tiếng pháo mừng Xuân. Bác Hồ có bài thơ mừng Xuân đầy
hào khí. Bác giành những tình cảm cho các chiến sĩ đang chiến đấu giữa
vòng vây tại Liên khu 1. Bác viết trong thư: “Các em là đội cảm tử. Các
em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”…
Sau Tết Nguyên đán, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp tới gặp Bộ Chỉ huy mặt
trận Hà Nội ở Tây Mỗ, nêu vấn đề phải tính tới ngay việc đưa bộ phận còn
lại của Trung đoàn Thủ đô ra ngoài. Nửa đêm 17 tháng 2 năm 1947, tiếng
súng nổ ran khắp Thủ đô. Quân Pháp vẫn cho là một đợt quấy rối lớn của
ta. Chính lúc đó, 1.200 chiến sĩ bao gồm cả phụ nữ, trẻ em, thương binh
bí mật luồn qua gầm cầu Long Biên dưới họng súng của những lính Pháp
đứng gác bên trên. Họ vượt sông Hồng trên những chiếc thuyền gỗ của dân.
Trưa ngày 18, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo về cuộc rút
lui thành công của Trung đoàn Thủ đô. Trong nỗi vui mừng khôn xiết, Tổng
chỉ huy Võ Nguyên Giáp viết một bức thư gửi Trung đoàn và ngày 22 Tổng
chỉ huy cùng với các đồng chí Trần Quốc Hoàn, Hoàng Văn Thái, Vương Thừa
Vũ đến thăm Trung đoàn Thủ đô tại làng Thượng Hội, Đan Phượng, Hà Đông.
Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp chuyển lời khen của Bác Hồ, thăm hỏi các
chiến sĩ và thay mặt Bộ Quốc phòng, Tổng chỉ huy tặng Trung đoàn lá cờ
thêu bốn chữ vàng “Trung đoàn Thủ đô”. Mọi người say sưa hát bài: “Rồi
ngày mai sẽ quay về đây. Sông Hồng reo sóng đón mừng đoàn quân quay về”.
Ngày về ấy chỉ tới vào 7 năm sau, ngày 10-10-1954. Không phải đánh vào
Thủ đô mà giải phóng Thủ đô, đó là kết quả của “Chín năm làm một Điện
Biên; Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” đưa đến giải phóng miền Bắc
trong đó có Thủ đô Hà Nội. Ngày giải phóng Thủ đô đã diễn ra như một
ngày hội: “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về…”. Nhiệm vụ tiếp quản
Thủ đô được trao cho Đại đoàn 308 trong đó có Trung đoàn Thủ đô. Đại
đoàn trưởng Vương Thừa Vũ vốn là chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội tám năm
về trước, hôm nay là Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố.
Ngày 1-1-1955, Chính phủ và Trung ương Đảng trở về Hà Nội. Bác Hồ gặp
lại đồng bào ở Quảng trường Ba Đình, nơi 9 năm về trước, Người đã đọc
Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử. Một cuộc duyệt binh mừng chiến thắng,
cuộc duyệt binh lớn đầu tiên được tổ chức ở Thủ đô Hà Nội đã diễn ra,
một cuộc duyệt binh của bộ đội và dân quân, chỉ mang toàn vũ khí của
Pháp và Mỹ, là các chiến lợi phẩm thu được trong cuộc Kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Trung tướng Phạm Hồng Cư/HNM