MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH Ở MỨC NGHIÊM TRỌNG
Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là Tỷ số giới tính khi sinh -SRB, chỉ số phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) ở mức cân bằng tự nhiên là khi tỷ số này trong khoảng 103-107 trẻ trai so với 100 trẻ em gái sinh ra sống trong một khoảng thời gian xác định, thường là 1 năm của quốc gia hay đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, và thực sự trở thành thách thức với công tác dân số từ khi tăng lên 109,8 và luôn ở ngưỡng trên 111 bé trai/100 bé gái (trừ năm 2009, TSGTKS có giảm nhẹ xuống 110,5 bé trai/100 bé gái). SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn, tương ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể, SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long (106,9 bé trai/100 bé gái). Sự khác biệt của SRB giữa khu vực thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước.
SRB của Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng lên 114,2 bé trai/100 bé gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 là 115,3 bé trai/100 bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm, mức tăng SRB của Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.
Như vậy, chỉ có một vùng có TSGTKS ở ngưỡng an toàn là Đồng bằng sông Cửu Long, các vùng còn lại đều đang đối mặt với tình trạng MCBGTKS, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Hồng TSGTKS ở mức rất cao là 115,5 bé trai/100 bé gái. Hầu hết các tỉnh có TSGTKS cao nằm ở vùng Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc. Một số tỉnh có TSGTKS cao trên 120 bé trai/100 bé gái là như Sơn La, Hòa Bình, Bắc Giang, Hưng Yên, Hà Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu.
NGUYÊN NHÂN SÂU XA LÀ ĐỊNH KIẾN GIỚI
Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng, miền và việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính,…
Theo báo cáo thực trạng dân số thế giới năm 2020 của Quỹ Dân số Liên hợp quốc, năm 2020 Việt Nam là một trong 3 quốc gia đang có TSGTKS cao nhất Châu Á, ước tính tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 40.800 bé gái không có cơ hội chào đời do việc lựa chọn giới tính thai nhi. Nguyên nhân cốt lõi chính là định kiến giới, tâm lý ưa thích con trai hơn con gái vẫn luôn tồn tại mãnh liệt trong mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng, mỗi gia đình và mỗi dòng họ. Tâm lý đó liên quan đến những phong tục tập quán, quan niệm văn hóa truyền thống, ưa thích con trai để nối dõi tông đường, thờ phụng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ và áp lực giảm sinh, chế độ an sinh xã hội, một số loại hình công việc đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai... Ngoài ra, các yếu tố trực tiếp tác động, hỗ trợ cho định kiến giới là việc lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh, trong lúc thụ thai hoặc khi đã có thai để chẩn đoán giới tính.
HỆ LỤY VỠ CẤU TRÚC GIA ĐÌNH VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can thiệp có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số của quốc gia và toàn cầu. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc gia đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính hiện nay. Đó là tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
Với tình trạng mất cân bằng, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một thời gian dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới quá trình hình thành và cấu trúc gia đình, đặc biệt là hệ thống hôn nhân.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, nước ta sẽ dư thừa khoảng 1,38 triệu nam giới vào năm 2026. Nam giới trẻ tuổi sẽ bị dư thừa so với nữ do tỷ lệ nữ giới đang giảm dần trong cùng một thế hệ và kết quả là họ có thể phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng khi tìm kiếm bạn đời. Trì hoãn hôn nhân trong nam giới hoặc gia tăng tỷ lệ sống độc thân là những khả năng có thể xảy ra trong tương lai do tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn. Điều này sẽ tác động ngược lại hệ thống gia đình trong tương lai khéo theo hàng loạt các hệ lụy xã hội nghiêm trọng.
NĂM 2030: ĐƯA TỶ SỐ GIỚI TÍNH KHI SINH VỀ MỨC CÂN BẰNG TỰ NHIÊN
Trước tình hình MCBGTKS ở Việt Nam xảy ra ngày càng nhanh và nghiêm trọng, ngày 23/3/2016, Thủ tưởng Chính phủ ban hành Quyết định số 468/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025.
Hội nghị lần thứ sáu, Khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ “Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng” và đặt mục tiêu “đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên”, “Đến năm 2030: Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống”.
Quan điểm và các mục tiêu chỉ đạo của Đảng đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên đã được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thông qua Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.
Để đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra, trong giai đoạn hiện nay, hệ thống chính trị cần nỗ lực tập trung tiếp tục triển khai các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chính sau:
Một là, đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của mọi người về hậu quả của MCBGTKS. Cụ thể là, cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin cho lãnh đạo các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và người có uy tín trong cộng đồng; Truyền thông cho các cặp vợ chồng, những người đứng đầu dòng họ và gia đình, nam nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn và những người cung cấp dịch vụ có liên quan; Thực hiện giáo dục về giới, bình đẳng giới với nội dung, hình thức thích hợp cho từng cấp học; Nghiên cứu, thiết kế, xây dựng, sản xuất các tài liệu truyền thông; tổ chức các hội nghị, hội thảo, chuyên đề, các chiến dịch, sự kiện truyền thông về mất cân bằng giới tính khi sinh.
Hai là, thực hiện các điều luật nghiêm cấm sử dụng công nghệ trong xác định giới tính thai nhi và đình chỉ thai nghén. Theo Điều 7, Pháp lệnh Dân số Việt Nam năm 2003, sửa đổi 2008, 2010 hay NĐ 104/2003 đã quy định việc thông báo giới tính thai nhi là vi phạm điều cấm. Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, có 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm gồm: Vi phạm quy định về tuyên truyền, phổ biến, tư vấn phương pháp để có được giới tính thai nhi theo ý muốn bị xử phạt bằng tiền với cách hành vi như chẩn đoán, xác định giới tính thai nhi, lựa chọn giới tính thai nhi, loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính... Ngoài ra, còn có hình phạt bổ sung như: Tịch thu tang vật vi phạm các quy định trên, Tước quyền sử dụng Giấy phép, Chứng chỉ hành nghề từ 1 đến 3 tháng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm bắt mạch hoặc siêu âm hoặc xét nghiệm cho người đang mang thai để chẩn đoán và tiết lộ, cung cấp thông tin về giới tính thai nhi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác…
Bên cạnh đó, chú trọng phổ biến, giáo dục những quy định pháp luật; hoàn thiện các thể chế, chính sách; tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; tăng cường các hoạt động đào tạo tập huấn.
Ba là, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội nhằm vào việc cải thiện vấn đề bình đẳng giới, nâng cao địa vị phụ nữ, trẻ em gái trong xã hội, xây dựng các chuẩn mực, giá trị xã hội phù hợp, từng bước khắc phục tư tưởng trọng nam, khinh nữ. Xây dựng và ban hành các hệ thống an sinh xã hội, đề án phúc lợi kinh tế có chú trọng đến đối tượng là phụ nữ và trẻ em gái.
Để đạt được mục tiêu Nghị quyết đề ra, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, gia đình, cộng đồng và cả hệ thống chính trị, trong đó, truyền thông, giáo dục thay đổi nhận thức là giải pháp chính, lâu dài và quan trọng nhất.
Thanh Vân