Chiều qua 12/6, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân tiếp tục trả
lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về việc thành lập Quỹ đầu tư mạo
hiểm công nghệ cao; chương trình đổi mới công nghệ quốc gia...
Chưa có Quỹ đầu tư mạo hiểm
Trả lời đại biểu Nguyễn Ngọc Bảo về Quỹ đầu tư mạo hiểm, Bộ trưởng
Nguyễn Quân khẳng định Việt Nam chưa có Quỹ đầu tư mạo hiểm mặc dù Luật
Công nghệ cao đã quy định nội dung này.
Trong Luật Ngân sách nhà nước, các luật có liên quan chưa có quy định
nội dung này, vì thế việc thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ các
nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ từ các viện, trường, đến
nay vẫn chưa làm được.
Trong Quốc hội khóa XII, Bộ Khoa học và Công nghệ đã báo cáo Quốc hội,
nhưng có ý kiến cho rằng cần sửa Luật Hình sự trước khi thành lập Quỹ
đầu tư mạo hiểm để tránh cho nhà khoa học lâm vào hoàn cảnh không may
mắn khi sử dụng ngân sách nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Vì vậy, Bộ
đã thí điểm hỗ trợ cho dự án tìm hiểu và lập Quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân
đầu tiên.
Đầu năm 2015, Quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân đầu tiên đã được Bộ Nội vụ cấp
giấy phép hoạt động và hiện nay đã tài trợ cho chín nhóm khởi nghiệp
của sinh viên các trường đại học, trong đó có năm nhóm khởi nghiệp đã
tìm được nhà đầu tư và họ đã đầu tư cho mỗi nhóm khoảng 200.000 USD. Sau
bốn tháng đi vào hoạt động, đã có công ty nước ngoài đặt giá mua 4
triệu USD. Bộ trưởng Nguyễn Quân đánh giá đây là tín hiệu cho thấy đầu
tư cho Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ đem đến thành công rất lớn.
Bộ trưởng cho biết hiện Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia không phải Quỹ
đầu tư mạo hiểm mà vẫn là quỹ nhà nước nên quy trình, thủ tục để có các
dự án đầu tư từ quỹ vẫn phải tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.
Đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
Làm rõ câu hỏi của đại biểu Trương Văn Vở (Đồng Nai), Bộ trưởng Nguyễn
Quân cho biết chương trình đổi mới công nghệ quốc gia còn đang xây dựng.
Bộ đang tiến hành ba dự án gồm Dự án xây dựng phương pháp đánh giá
trình độ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam; Dự án xây dựng bản đồ công
nghệ cho lĩnh vực chủ chốt của công nghiệp Việt Nam; Dự án đầu tư nâng
cao trình độ công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với các vấn đề này, Bộ đang thực hiện chậm so với tiến độ mong muốn,
vì Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đã được Chính phủ quyết định
từ năm 2011, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia cũng đi vào hoạt động từ
đầu năm 2015, nhưng quá trình xây dựng văn bản hướng dẫn cho chương
trình, cho cơ chế quỹ kéo dài do Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong lĩnh
vực này.
Liên quan đến sự chồng lấn giữa các nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc
gia, câu hỏi của đại biểu Hoàng Thị Tố Nga được Bộ trưởng Nguyễn Quân
trả lời thỏa đáng. Bộ Khoa học và Công nghệ được Thủ tướng Chính phủ
giao chủ trì 15 Chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia, trong đó
có ba chương trình lớn gồm: Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia;
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao; Chương trình sản phẩm
quốc gia. Ngoài ra, có 12 chương trình khác đó là các chương trình khoa
học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, các chương trình nông thôn miền
núi, sở hữu trí tuệ, nâng cao năng suất chất lượng...
Song song với đó, 25 chương trình khác được giao cho các bộ, ngành gồm
Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Bộ
Công Thương, Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ, các Ban Chỉ đạo...
Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm quản lý chung nên Bộ phê duyệt
khung chương trình quốc gia. Trong quá trình các bộ, ngành tổ chức thực
hiện, các danh mục nhiệm vụ trước khi phê duyệt, ký hợp đồng với tổ
chức, cá nhân thực hiện đều có ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ. Qua
đó, Bộ rà soát các nhiệm vụ thông qua cơ sở dữ liệu về đề tài, dự án cấp
quốc gia để hạn chế việc trùng lặp nhiệm vụ giữa các đề tài, chương
trình.
Theo Luật Khoa học và Công nghệ 2013, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ thống
nhất với Bộ Tài chính có quy định chặt chẽ hơn để dòng tài chính, các
nhiệm vụ cấp quốc gia sẽ về một đầu mối là Bộ Khoa học và Công nghệ, còn
giao cho các bộ, ngành trực tiếp thì vai trò của Bộ Khoa học và Công
nghệ cũng được thể hiện rõ để xác định trách nhiệm.
Tiếp tục làm rõ hơn chất vấn của đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định) về
Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết từ khi Quốc
hội cho chủ trương, Chính phủ giao nhiệm vụ, sau 16-17 năm, Khu công
nghệ cao Hòa Lạc chưa thực hiện được dự án theo đúng tiến độ do cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vướng mắc nhất của dự án là khâu
giải phóng mặt bằng.
Bên cạnh đó, do việc sáp nhập Hà Tây về Hà Nội nên dự án đã phải điều
chỉnh nhiều lần, khung giá đất cũng thay đổi. Tuy nhiên, cuối năm 2014,
Chính phủ đã ủng hộ nên có cơ chế đặc biệt cho giải phóng mặt bằng, được
áp dụng cơ chế Đại lộ Thăng Long, do đó toàn bộ việc giải phóng mặt
bằng đã được giải quyết xong.
Dự kiến ngày 26/6 tới, Bộ Khoa học và Công nghệ khởi công dự án hạ tầng
theo vốn ODA của Nhật Bản. Đến năm 2018, Khu công nghệ cao Hòa Lạc sẽ đi
vào hoạt động đúng với dự kiến ban đầu. Như vậy, sau hai năm thi công
hạ tầng đồng bộ sẽ là giai đoạn xúc tiến đầu tư và tổ chức hoạt động
công nghệ cao theo đúng tiêu chí Khu công nghệ cao.
Trả lời chất vấn của đại biểu Phạm Tất Thắng (Vĩnh Long) về giải pháp
khoa học và công nghệ để nâng cao năng suất lao động, Bộ trưởng Nguyễn
Quân thừa nhận năng suất lao động của Việt Nam còn rất thấp bởi trình độ
sản xuất thấp, mức đầu tư cho các hoạt động cũng rất thấp.
Những năm gần đây, năng suất lao động của Việt Nam đã dần tăng lên, thu
hẹp khoảng cách với các nước. Tuy nhiên, để tăng năng suất lao động,
theo Bộ trưởng, điều không thể thiếu ngoài cơ chế chính sách tốt, đầu tư
vốn và nâng cao trình độ người lao động, vấn đề đưa khoa học công nghệ
vào sản xuất là yếu tố tất yếu.
Bộ trưởng nêu dẫn chứng Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông
đứng bên bờ vực phá sản, nhưng nhờ áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ,
trong vòng 10 năm công ty trở thành một trong 500 doanh nghiệp hàng đầu
Việt Nam.
Bộ Khoa học và Công nghệ coi trọng đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất để tăng năng suất lao động. Các chương trình quốc gia về khoa
học công nghệ đều tập trung vào việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất
kinh doanh và đặc biệt đối với nông thôn có chương trình nông thôn miền
núi với mức đầu tư 700 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước.
Bộ đã huy động được hơn 800 tỷ đồng từ doanh nghiệp và giai đoạn
2011-2015 đã có 390 dự án cho 61 tỉnh, thành phố trong cả nước đem lại
hiệu quả tốt cho địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
Mặc dù Chương trình nông thôn miền núi đã đem lại kết quả rất tốt nhưng
có sự trùng lặp, trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Lâm Thành, Bộ
trưởng Nguyễn Quân lý giải Chương trình Nông thôn miền núi bắt đầu từ
năm 2001 và đã bước sang giai đoạn thứ 3. Trong suốt 15 năm hoạt động,
chương trình có sự tham gia của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Hội Nông dân và một số tổ chức khác trong Ban
điều hành.
Kết quả chương trình còn hạn chế do nguồn lực của chương trình rất khiêm
tốn với khoảng 100 tỷ đồng hỗ trợ từ ngân sách trong khi cả nước có 63
tỉnh, thành phố với hơn 700 huyện, hơn 10.000 xã. Điều này cho thấy,
nhiều địa phương còn khó khăn nhưng Bộ Khoa học và Công nghệ không thể
thu xếp, bố trí các dự án hỗ trợ. Bên cạnh đó, sự bất cập về trùng lặp
khi có khoảng 20 dự án trồng nấm trong số 390 dự án.
Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết thời gian tới, Chương trình nông thôn
miền núi sẽ lồng ghép với Chương trình quốc gia của Ủy ban Dân tộc dành
cho các địa phương, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn để tiếp tục
đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo đó, giai đoạn 4, Chương trình sẽ được lồng ghép chứ không là chương
trình độc lập như ba giai đoạn trước.
Đại biểu Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước) nêu câu hỏi: "Việt Nam đã có Chương
trình nghiên cứu nào phục vụ cho việc trồng và sản xuất sản phẩm khi
đang phải nhập rất nhiều mặt hàng như hạt điều, ngô, đậu tương?"
Làm rõ vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Quân thừa nhận Việt Nam vẫn nhập một
số sản phẩm nông nghiệp vì khó ràng buộc doanh nghiệp sản xuất phải sử
dụng sản phẩm trong nước, mặc dù Việt Nam có năng lực sản xuất.
Bộ trưởng cho biết Viện Nghiên cứu Ngô của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tạo ra nhiều giống ngô lai năng suất cao, chất lượng tốt,
nhưng chỉ đủ năng lực chuyển giao, tổ chức sản xuất ở diện tích trên
200.000ha khu vực phía Bắc. Vì vậy, các chương trình khoa học công nghệ
trọng điểm đã giao nhiệm vụ cho một số bộ đề tài cấp quốc gia từ giống
cho đến canh tác, sử dụng sản phẩm nông nghiệp như đậu tương, ngô.
Tuy nhiên, kết quả còn hạn chế do doanh nghiệp chưa thật quan tâm, chưa
mạnh dạn đầu tư hay chưa tin tưởng vào sản phẩm của viện nghiên cứu.
Chương trình sản phẩm quốc gia được phê duyệt gồm sáu sản phẩm chính
thức và ba sản phẩm dự bị, trong đó sản phẩm nông nghiệp mới chỉ có lúa
gạo, cá da trơn, nấm.
Các sản phẩm như hạt điều, ngô, đậu tương chưa được đưa vào Chương trình
vì chưa đáp ứng được tiêu chí của sản phẩm quốc gia, Bộ trưởng cho
biết.
Để khoa học công nghệ thực sự trở thành quốc sách hàng đầu
Kết thúc phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
Nguyễn Quân, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đánh giá đây là lần đầu
tiên Bộ trưởng Nguyễn Quân trả lời chất vấn trước Quốc hội nhưng nhận
được sự quan tâm đặc biệt từ các đại biểu Quốc hội. Những câu hỏi của
đại biểu Quốc hội và trả lời của Bộ trưởng cho thấy tầm quan trọng đặc
biệt của khoa học công nghệ đối với đời sống kinh tế-xã hội; đồng thời
cũng thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực
then chốt này.
Khẳng định vị trí then chốt của khoa học công nghệ, đặc biệt trong bối
cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng, Chủ tịch Quốc hội cho rằng
qua phiên chất vấn cho thấy rất nhiều vấn đề đang còn tồn tại, cần
nghiên cứu đề xuất các giải pháp để khẩn trương tháo gỡ những vướng mắc
trong thời gian tới để khoa học công nghệ thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu.
Chủ tịch Quốc hội đã nêu lên các vấn đề lớn Bộ Khoa học và Công nghệ cần
quan tâm nghiên cứu, đề xuất giải pháp và thực hiện trong thời gian
tới. Trong đó, Bộ cần tập trung phát triển khoa học công nghệ đồng bộ,
xây dựng thị trường khoa học công nghệ, trong đó chủ thể là các nhà
nghiên cứu khoa học, người sử dụng công nghệ; tiếp tục giải quyết vấn đề
cung và cầu, làm rõ vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ này.
Bộ cần khắc phục triệt để tình trạng đề tài nghiên cứu khoa học để ngăn
kéo, tránh lãng phí cho nguồn ngân sách quốc gia; thực hiện hiệu quả
chuyển đổi các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng
các bộ, ngành khác phát triển chương trình sản phẩm quốc gia thương hiệu
Việt Nam với giá thành hợp lý, được thị trường chấp nhận.
Ngay sau phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận là vị Bộ trưởng thứ 4 đăng đàn trả lời
chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội./.
(TTXVN)