Trong quá trình hội nhập, các biện pháp hỗ trợ thị trường nội địa vẫn
luôn được các quốc gia tăng cường sử dụng. Câu chuyện cá tra, cá basa
Việt Nam bị bị áp thuế chống bán phá giá tại Mỹ, thép cuộn cán nguội
xuất khẩu bị áp thuế chống bán phá giá Indonesia… không còn xa lạ và tới
đây các “cuộc chiến” bảo trợ sau hàng rào thế quan sẽ còn diễn ra mạnh
mẽ và tinh vi hơn.
Quay trở lại thị trường nội địa, các cam kết hội nhập cũng đặt ra nhiều
thách thức, như sự gia tăng cạnh tranh giành thị phần, sự chèn lấn về
khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp nước ngoài… với doanh nghiệp
trong nước. Tình hình đã khiến nhiều chuyên gia đặt câu hỏi: Chúng ta
còn bao nhiêu không gian chính sách để bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước?
Cơ hội nghiêng về khối ngoại
Một nghiên cứu gần đây nhất từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương (CIEM) và Tổ chức Action Aid International tại Việt Nam đã nhấn
mạnh ý nghĩa phát triển kinh tế mũi nhọn, trong đó chỉ ra hai lĩnh vực
kinh tế mà Việt Nam có tiềm năng và thế mạnh phát triển là công nghiệp
điện tử và công nghiệp chế biến thực phẩm.
Báo cáo với chủ đề “Tác động của các hiệp định thương mại tự do và hiệp
định đầu tư song phương tới các mục tiêu phát triển dài hạn của Việt
Nam” đã nhấn mạnh điện tử là ngành Việt Nam có tiềm năng phát triển cao
trong tương lai, khi gần đây các công ty điện tử đa quốc gia đang tăng
sự quan tâm đầu tư và mở rộng sản xuất.
Các phân tích trong đó cho rằng đây là yếu tố cơ hội giúp tăng vị thế
của Việt Nam trong chuỗi cung ứng các sản phẩm điện tử dân dụng.
Xét về các điều kiện cam kết, sau khi gia nhập WTO, thuế quan đối với
các sản phẩm điện tử được thực hiện khá nhanh. Trần thuế nhập khẩu với
tất cả sản phẩm điện tử giảm về mức 0% trong (vòng 3 năm-5 năm hoặc tối
đa 7 năm).
Việc thực thi cam kết cắt giảm thuế quan trong các FTA khu vực từ 2006
cũng tác động đáng kể đến ngành điện tử ở Việt Nam khi hầu hết các dòng
thuế đều được cắt giảm về 0%.
Liên quan đến các cam kết đầu tư, trong khuôn khổ WTO và những thay đổi
gần đây cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài được trao nhiều quyền/cơ hội
trong việc nắm giữ cổ phẩm trong các doanh nghiệp nội địa.
Bên cạnh đó, Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang
đàm phán hướng tới phạm vi rộng hơn, trong đó nhấn mạnh những quy định
liên quan đến đầu tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu tư. Đặc biệt, Việt Nam
khó có thể giảm những ưu đãi đã cấp cho các doanh nghiệp điện tử nước
ngoài (cao hơn so với doanh nghiệp trong nước) nếu có các cam kết chặt
chẽ hơn về bảo hộ, xử lý tranh chấp giữa nhà đầu tư và Chính phủ.
Trước bối cảnh đó, chuyên gia Nguyễn Anh Dương thuộc Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, quá trình hội nhập quốc tế đã tác
động đáng kể đến không gian chính sách đối với ngành điện tử, như thu
hẹp không gian chính sách thuế quan, giảm mức độ và khả năng sử dụng các
biện pháp phi thuế quan, hạn chế hỗ trợ tín dụng đối với các doanh
nghiệp trong nước và giảm các biện pháp hỗ trợ liên quan đến đầu tư cho
các doanh nghiệp trong nước.
“Tuy vậy, Chính phủ vẫn còn dư địa để thực hiện những biện pháp hỗ trợ
ngành này, bao gồm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đào tạo và tập huấn
cho lao động, nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương mại và phát
triển thị trường, bởi những biện pháp thuần túy thương mại để hạn chế
các sản phẩm điện tử thâm nhập thị trường hầu như không còn nhiều dư
địa,” ông Dương đề xuất.
Hàng rào phi thuế quan... không dễ
Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đến 2025 và tầm
nhìn đến 2035 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định 879, đã đặt nền
tảng phát triển cho ngành công nghiệp chế biến, trong đó có chế biến
thực phẩm.
Nhưng bối cảnh hội nhập quốc tế hiện cũng cho thấy nhiều vấn đề đối với
ngành chế biến thực phẩm. Cụ thể: Mức thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm
dần, các quy tắc xuất xứ ngày càng phức tạp hơn, như vậy việc áp dụng
quy tắc xuất xứ trong nước khó có thể giúp hạn chế cạnh tranh với các
sản phẩm nước ngoài.
Thêm vào đó, việc tuân thủ các quy định về sở hữu trí tuệ cũng không dễ
dàng, trong khi ngành chế biến thực phẩm của Việt Nam thường đi chậm hơn
trong việc đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ như nhãn hiệu sáng chế, nhãn
hiệu tập thể và chỉ dẫn địa lý…
Bên cạnh đó, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia của Việt Nam đối với ngành chế
biến thực phẩm thấp hơn so với các nước phát triển nên khi áp dụng tiêu
chuẩn kỹ thuật cao hơn sẽ mang lại thách thức cho doanh nghiệp nội địa
(quy tắc Đối xử quốc gia trong WTO và các hiệp định thương mại tự do
khác).
Ông Nguyễn Tiến Dũng , Phó giám đốc, Economica Vietnam nhấn mạnh, các
cam kết từ Hiệp định TPP tới đây có các điều khoản liên quan đến sở hữu
trí tuệ được mở rộng hơn nhiều so với WTO, do đó việc sử dụng hàng rào
phi thuế quan sẽ bị hạn chế bởi những quy định liên quan đến đảm bảo
minh bạch.
Theo ông Dũng, những nỗ lực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn,
song nếu thiếu quan tâm đúng mức đến thực trạng phát triển và mong muốn
của doanh nghiệp trong nước, có thể ảnh hưởng bất lợi tới sự phát triển
sản xuất.
“Do đó, Việt Nam cần một lộ trình phù hợp và đủ dài với quyết định tiếp
cận đối với các FTA và BIT, để có thể đảm bảo khả năng đó có thể thành
hiện thực hóa. Chính phủ cần duy trì không gian chính sách bằng khả năng
sử dụng nhiều công cụ hỗ trợ khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong
quá trình kiến tạo môi trường phát triển thuận lợi, phù hợp và nhất quán
cho các doanh nghiệp sản xuất chế biến ở Việt Nam,” ông Dũng kiến
nghị./.
Hạnh Nguyễn (Vietnam+)