Thứ Ba, 24/9/2024
Kinh tế
Thứ Hai, 10/11/2008 11:33'(GMT+7)

Đổi mới phương thức quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng trước áp lực của lạm phát và suy thoái kinh tế tòan cầu

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Từ giữa năm 2007 đến nay, tình hình kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường. Giá dầu mỏ, giá vàng, giá lương thực, thực phẩm và các mặt hàng chủ chốt khác tăng vọt, đẩy chỉ số giá tiêu dùng ở nhiều nước tăng mạnh. Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp nhà ở Mỹ ngày càng trầm trọng, kéo theo sự suy giảm của nền kinh tế hàng đầu thế giới và tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu.

Do tác động của tình hình kinh tế thế giới, kinh tế nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 12,6% trong năm 2007 và tiếp tục tăng mạnh trong những tháng đầu năm 2008, gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân; nhập siêu tăng cao, làm tăng mạnh thâm hụt cán cân vãng lai... Hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng có những biến động. Trước những khó khăn, thách thức đó, bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, mà trọng tâm là 8 nhóm giải pháp mà Chính phủ đã đề ra trong chỉ đạo điều hành năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, cụ thể:

Hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có những định hướng, giải pháp nào để ứng phó với tình trạng và suy suy thoái nền kinh tế nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững?

Rút bớt tiền từ lưu thông thông qua điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc; chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng ở mức hợp lý để kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng; đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước bảo đảm lãi suất thực dương cho người gửi tiền; điều hành chính sách tỷ giá theo nguyên tắc linh hoạt và có kiểm soát, thông qua mở rộng biên độ mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ ±1% lên ± 2%, can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường nhằm ổn định thị trường ngoại hối; tăng cường hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác, chỉ đạo các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, điều chỉnh cơ cấu tín dụng cho phù hợp với định hướng, chủ trương chính sách phát triển kinh tế của đất nước và của ngành, tập trung ưu tiên vốn cho phát triển sản xuất, xuất khẩu, các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và phát triển nông nghiệp, nông thôn; tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để đánh giá diễn biến thị trường và có biện pháp can thiệp phù hợp, tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhỏ, để chấn chỉnh việc quản trị, điều hành, việc chấp hành các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng theo hướng vừa bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực quốc tế vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam, nhất là các quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn; phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần... Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động tiền tệ, ngân hàng và công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Ngân hàng Nhà nước, bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác, nhằm định hướng dư luận; Thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý ý kiến phản ánh của doanh nghiệp và người dân về hoạt động tiền tệ, ngân hàng.

Những biện pháp nêu trên của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện đồng bộ với các giải pháp do các bộ, ngành khác triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ, đã có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2008 tăng 16,3% so với cùng kỳ năm 2007; xuất khẩu tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao 43,3 tỉ USD, tăng 39,1% so với cùng kỳ năm 2007; nhập siêu đã giảm dần: quý I tỷ lệ nhập siêu là 62,4% trên tổng kim ngạch xuất khẩu; quý II giảm xuống còn 34%; tháng 7 và tháng 8 chỉ còn 14%. Chỉ số CPI giảm dần: tháng 6 tăng 2,14%; tháng 7 tăng 1,13% và tháng 8 mặc dù điều chỉnh tăng giá xăng dầu nhưng CPI chỉ tăng 1,56% và tháng 9 chỉ còn 0,18%. Thị trường tiền tệ và ngoại hối đã ổn định; khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được cải thiện. Triển vọng kinh tế của Việt Nam vẫn được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, biểu hiện là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký đạt 47,1 tỉ USD và giải ngân đạt 7 tỉ USD, mức kỷ lục từ trước đến nay.

Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến rất phức tạp và khó dự báo. ở trong nước, tốc độ lạm phát tuy có giảm nhưng tính đến tháng 8-2008 vẫn tăng 21,65% so với đầu năm; nhập siêu vẫn còn rất lớn; sản xuất, đầu tư của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do chi phí vật tư, nhiên liệu cao...Vì vậy, nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong những tháng còn lại của năm 2008 vẫn rất nặng nề, trong đó nhiệm vụ hàng đầu đã được Chính phủ xác định là tiếp tục thực hiện giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với quy luật phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

Vấn đề đặt ra hiện nay là, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có những định hướng, giải pháp nào để ứng phó với tình trạng lạm phát và suy giảm kinh tế toàn cầu, góp phần ổn định môi trường vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững? Thực tiễn những biến động về kinh tế, tiền tệ trên thế giới thời gian qua đã cho thấy, các ngân hàng trung ương đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp ổn định thị trường tài chính và quản lý, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng; sự yếu kém của hệ thống tài chính, tiền tệ vừa qua cũng khẳng định rõ hơn sự cần thiết nâng cao năng lực tài chính, hoàn thiện mô hình tổ chức, năng lực quản trị, điều hành của các định chế tài chính trước những biến động bất thường của thị trường.

Vì vậy, để hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển an toàn, hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một trong những nội dung trọng tâm thời gian tới là từng bước nâng cao vai trò, vị thế của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương và chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng; đồng thời tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Đó cũng là một trong những nội dung cơ bản trong Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nội dung cơ bản của Chương trình hành động đó là:

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế: Thực hiện đúng tiến độ kế hoạch xây dựng các luật và văn bản hướng dẫn để tạo tính đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Đó là các dự án luật theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XII (2007 - 2011) và năm 2008: Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng và Luật Bảo hiểm tiền gửi vào năm 2010. Đồng thời, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới một cách đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị định liên quan đến hoạt động ngân hàng, hoạt động ngoại hối; rà soát để bổ sung, sửa đổi, ban hành mới các văn bản về thị trường tiền tệ, ngoại hối, tín dụng, thanh toán, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động ngân hàng trong điều kiện thực hiện các cam kết mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế.

Phát huy vai trò của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở phát triển nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ điều hành gián tiếp khác; gắn kết chặt chẽ việc điều hành tỷ giá hối đoái với điều hành lãi suất; nâng cao khả năng quản lý, giám sát và kiểm soát chặt chẽ, linh hoạt các luồng vốn, năng lực theo dõi, dự báo, quản lý và can thiệp thị trường của Ngân hàng Nhà nước nhằm góp phần giữ ổn định thị trường, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các chương trình và đề án được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg, ngày 24-5-2006, nhằm hiện đại hóa từng bước cơ cấu tổ chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc chủ động điều hành chính sách tiền tệ, thanh tra giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, bảo đảm sự vận hành an toàn, thông suốt của hệ thống ngân hàng, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán và hiệu quả của hệ thống cơ chế, chính sách, đặc biệt là sự nhất quán giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ quốc gia.

- Tiếp tục đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát, phát triển các công cụ dự báo, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, sự ổn định tài chính: Tập trung triển khai thực hiện các chương trình, đề án về hoàn thiện, đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng và thực hiện tốt chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ, thường xuyên và đột xuất. Phát triển các công cụ dự báo, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiệp vụ giám sát từ xa, cảnh báo sớm rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác phòng chống rửa tiền, phòng chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực ngân hàng; tăng cường và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng từ trung ương đến địa phương. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các đơn vị chức năng trong Ngân hàng Nhà nước và hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính, ngân hàng; tranh thủ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

- Từng bước mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế: Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách theo cam kết mở cửa thị trường. Thực hiện các bước mở rộng theo lộ trình cam kết quyền tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng đối với cả bên cung cấp và bên sử dụng dịch vụ ngân hàng. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước vươn ra hoạt động ở thị trường nước ngoài. Thực hiện các quy định về thành lập mới ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng bảo đảm minh bạch, công khai cũng như lộ trình mở cửa hoạt động ngân hàng đã cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

- Tiếp tục tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động: Thực hiện tiến độ và yêu cầu của tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tăng cường năng lực và chất lượng hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân; bảo đảm phát triển vững chắc, an toàn và có hiệu quả các quỹ tín dụng nhân dân được thành lập mới. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các biện pháp hoàn thiện mô hình tổ chức, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập quốc tế, mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng hiện đại, tiên tiến, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và của nhân dân.

- Tham gia các điều ước quốc tế, các diễn đàn khu vực và thế giới về tiền tệ, ngân hàng: Thực hiện tốt vai trò đại diện của Chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hợp tác đa phương và song phương trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng nhằm tận dụng nguồn vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến của nước ngoài./.

TS. Nguyễn Văn Giàu
Ủy viên Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản điện tử)

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất