ĐỒNG CHÍ LÊ ĐỨC THỌ VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG XÂY DỰNG CHI BỘ, ĐẢNG BỘ CƠ SỞ BỐN TỐT
Cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” diễn ra trong hoàn cảnh ác liệt, khẩn trương của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội lần thứ III của Đảng đã nhấn mạnh phải kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, tăng cường tính giai cấp và tính tiên phong, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Để đáp ứng yêu cầu đó, tháng 6/1962, Ban Bí thư Trung ương đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt”.
Theo yêu cầu của Trung ương “Chi bộ bốn tốt là chi bộ mà đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết, chấp hành tốt đường lối chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt”(1). Cuộc vận động xây dựng chi bộ và Đảng bộ cơ sở “bốn tốt” được triển khai trong toàn miền Bắc bao gồm các nội dung: lãnh đạo tốt sản xuất; lãnh đạo tốt việc chấp hành chính sách và pháp luật của Nhà nước; quan tâm đến đời sống quần chúng và làm tốt công tác vận động quần chúng; làm tốt công tác củng cố và phát triển Đảng.
Ngày 5/8/1964, Mỹ ném bom chính thức mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Công tác tổ chức của Đảng đã chuyển hướng phục vụ việc hoàn thành tốt nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
Thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ đã ký Nghị quyết của Ban Bí thư số 122-NQ/TW, ngày 6/7/1965 về “Tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ và Đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Nghị quyết bổ sung thêm nội dung của bốn yêu cầu. Yêu cầu thứ nhất “lãnh đạo sản xuất tốt” đã được bổ sung thành “lãnh đạo sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu tốt”. Các yêu cầu khác cũng được cụ thể hóa, phù hợp với đòi hỏi của hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu.
Trong bốn yêu cầu, yêu cầu thứ 4 về công tác quần chúng, được xác định là yêu cầu cơ bản nhất, then chốt nhất. Nghị quyết nêu rõ: “Thực hiện tốt bốn yêu cầu là phải nhằm nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của đông đảo đảng viên, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt”(2). Nhận thức rõ vai trò hàng đầu của nông thôn và đảng bộ cơ sở ở nông thôn đối với sự nghiệp kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng trong năm 1965, Ban Tổ chức Trung ương soạn thảo nội dung cụ thể bốn yêu cầu xây dựng chi bộ “bốn tốt” ở nông thôn đối đối với đảng viên và đảng bộ, chi bộ xã. Đây là sự định hướng cụ thể cho việc đảm bảo thực hiện tốt cũng như việc đánh giá đầy đủ, chính xác các chi bộ, đảng bộ cơ sở ở nông thôn.
Sau đó, ngày 7/4/1966, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Ban Bí thư ký chỉ thị về việc ra sức nâng cao chất lượng và tăng cường công tác phát triển Đảng song song với việc củng cố Đảng. Chỉ thị nêu ra thành tựu và hạn chế của công tác xây dựng Đảng, qua đó nhắc nhở các cấp ủy quán triệt 5 vấn đề chính nhằm nâng cao chất lượng công tác phát triển Đảng trong cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt, trong đó nhấn mạnh: các cấp ủy và tổ chức cơ sở đảng cần phải nhận thức rõ yêu cầu củng cố và phát triển Đảng trong điều kiện mới, phải nắm vững phương châm củng cố đi đôi với phát triển đảng, phải quán triệt một cách đầy đủ, mục đích yêu cầu, phương châm của cuộc vận động xây dựng chi bộ (và đảng bộ cơ sở bốn tốt) để tăng cường chỉ đạo, thực hiện đảm bảo cho việc củng cố và phát triển Đảng được tiến hành một cách đúng đắn và thường xuyên. Các nghị quyết và chỉ thị trên vạch ra những yêu cầu, phương hướng và nhiệm vụ xây dựng chi bộ Đảng “bốn tốt” trong thời gian tiếp theo.
Ngày 16/4/1966, Ban Bí thư đã triệu tập hội nghị tổng kết công tác xây dựng tổ chức cơ sở của đảng. Tại Hội nghị, đồng chí Lê Đức Thọ đã có bản tổng kết ba năm tiến hành cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt”. Từ những kinh nghiệm phong phú, toàn diện và từng mặt về xây dựng tổ chức cơ sở của đảng trên nhiều lĩnh vực công tác, đồng chí đã rút ra bảy bài học kinh nghiệm lớn: về vị trí và sự lãnh đạo toàn diện của tổ chức cơ sở đảng; quán triệt đầy đủ bốn yêu cầu của cuộc vận động; gắn việc xây dựng chi bộ về tư tưởng, tổ chức với việc đấu tranh thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, từng địa phương trong từng thời gian; liên hệ chặt chẽ với quần chúng; gắn việc xây dựng chi bộ, đảng bộ bốn tốt với xây dựng tổ đảng bốn tốt, đảng viên bốn tốt; nắm vững phương châm vừa phát huy tinh chủ động, sáng tạo của cơ sở vừa tăng cường sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên. Trong phần cuối của bản báo cáo, đồng chí đã phân tích sâu sắc tình hình, nhiệm vụ cách mạng hiện nay và nêu rõ: các cấp ủy, các đảng viên đều phải phấn đấu để đạt yêu cầu bốn tốt và coi đó và một nghĩa vụ bắt buộc, thực hiện tốt Nghị quyết của Ban bí thư, trong hai năm 1966-1967 đưa phần lớn các chi bộ, đảng bộ cơ sở tiến lên đạt yêu cầu bốn tốt. Bản báo cáo đã giúp cho cấp ủy và các đảng viên có một nhận thức rõ ràng, đúng đắn hơn về vai trò và các biện pháp xây dựng tốt tổ chức đảng cơ sở.
Sau Hội nghị, cuộc vận động được đẩy mạnh toàn diện, đặc biệt là việc kiểm điểm đảng viên, kiểm điểm các tổ chức cơ sở đảng theo bốn yêu cầu được tiến hành thường xuyên hơn. Việc kiểm điểm, kiểm tra là cơ sở để đánh giá kết quả, từ đó xây dựng, khuyến khích và mở rộng các điển hình, củng cố tinh thần cách mạng, đồng thời thấy rõ được những khuyết điểm để có quyết tâm và biện pháp khắc phục. Ngày 8/7/1966, theo sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Thọ, Ban Tổ chức Trung ương ra Thông tri “Về việc chỉ đạo và tiến hành nhận xét” chi bộ, đảng bộ cơ sở, tổ đảng và đảng viên bốn tốt. Thông tri đã hướng dẫn các cấp ủy và tổ chức cơ sở Đảng phải nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của việc nhận xét, đánh giá và nắm vững nội dung bốn yêu cầu khi tiến hành phân loại, phải xem xét cụ thể tác động của sự lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với kết quả như thế nào, đi sâu phân tích những vấn đề về tư tưởng, quan điểm, tác phong của cán bộ, đảng viên, tránh chỉ xem xét kết quả hời hợt bằng con số.
Nhận thức tầm vai trò quan trọng của cấp huyện là cấp trực tiếp chỉ đạo, muốn đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức cơ đảng theo yêu cầu bốn tốt thì phải gắn chặt với việc kiện toàn cấp huyện, đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những người khởi xướng và chỉ đạo thực hiện cuộc vận động xây dựng huyện ủy “bốn tốt”. Ngày 20/5/1966, đồng chí thay mặt Ban bí thư ký nghị quyết về việc kiện toàn sự lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện của các huyện ủy, quyết định mở cuộc vận động xây dựng các huyện ủy theo bốn yêu cầu cơ bản (bốn tốt) trong thời gian của kế hoạch 2 năm 1966-1967. Ở nhiều địa phương, như ở Quảng Bình, Hải Phòng, Yên Bái, Lạng Sơn… Việc xây dựng huyện ủy bốn tốt đã gắn với với cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt, qua đó thúc đẩy mạnh mẽ cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt ở các địa phương này.
Là người chỉ đạo, theo dõi cuộc vận động, trực tiếp đến nhiều địa phương để tìm hiểu, đồng chí có nhiều bài viết phản ánh chính xác kết quả, phân tích nội dung và phương pháp, đề ra định hướng và các biện pháp cụ thể để đẩy mạnh cuộc vận động một cách mạnh mẽ, toàn diện, có hiệu quả. Trong bài viết “Tăng cường lãnh đạo cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở “bốn tốt” năm 1967, đồng chí Lê Đức Thọ nêu lên kết quả của cuộc vận động: “Rất đông chi bộ đã có chương trình, kế hoạch phấn đấu trở thành chi bộ bốn tốt, khoảng 1/5 số chi bộ được công nhận là chi bộ bốn tốt”(3), đồng thời cũng thẳng thắn chỉ rõ hạn chế căn bản “Cuộc vận động tiến triển còn chậm, chưa đều. cho đến nay, vẫn còn hơn 20% số chi bộ chưa xây dựng chương trình, kế hoạch phấn đấu theo yêu cầu “bốn tốt”. Kết quả cuộc vận động chưa bền vững”. Có nơi “chỉ phát động sôi nổi rầm rộ một lúc rồi buông trôi. Số chi bộ “bốn tốt” còn ít, số đảng bộ cơ sở “bốn tốt” lại càng ít, những điển hình tốt chưa được mở rộng”(4). Trên cơ sở đó, đồng chí yêu cầu các cấp ủy Đảng phải quán triệt một cách toàn diện bốn yêu cầu của cuộc vận động, bốn yêu cầu đó có quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời, không thể xem nhẹ một yêu cầu nào; bên cạnh đó, phải đi sâu chỉ đạo điển hình và mở rộng số chi bộ “bốn tốt” một cách vững chắc.
Trong nhiều bài viết về công tác xây dựng Đảng, đồng chí nhấn mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt” phải gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ công tác ở cơ sở, bởi vậy về phương pháp tiến hành phải biết gắn cuộc vận động vào sinh hoạt thường ngày của chi bộ, đảng bộ cơ sở; phải biết kết hợp cuộc vận động này với các cuộc vận động lớn khác như cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, “ba xây, ba chống”… Các cuộc vận động này đều bao gồm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, củng cố chi bộ “bốn tốt” và ngược lại, việc xây dựng đẩy mạnh các chi bộ bốn tốt là cơ sở, điều kiện để thực hiện tốt các cuộc vận động trên. Đồng chí chỉ rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành: cấp tỉnh “theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo xây dựng điển hình, sơ kết, tổng kết”; cấp huyện là cấp trực tiếp lãnh đạo “ngoài việc chỉ đạo chung, phải nắm chắc tình hình của từng cơ sở, hướng dẫn, giúp đỡ cụ thể cho từng nơi”; trách nhiệm của Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo và Uỷ ban kiểm tra, các ngành khác “đều có thể và cần phải góp phần vào cuộc vận động này”.
Từ kinh nghiệm của cuộc vận động, đồng chí nhấn mạnh vai trò của tổ chức Đảng ở cơ sở và chỉ ra nhiều vấn đề việc xây dựng tổ chức Đảng về tư tưởng và tổ chức, về mối quan hệ giữa các tổ chức đảng với tổ chức của chính quyền và các tổ chức quần chúng, về việc lựa chọn và bồi dưỡng đảng viên, về nguyên tắc và các yêu cầu cụ thể đối với kiểm tra, đánh giá đảng viên, chi bộ… Đây là những đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Thọ với sự phát triển về mặt lý luận của công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở nói riêng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt” (1962-1967) không tiến hành từng đợt tập trung, theo trình tự các bước công tác nhất loạt giống nhau, mà được tiến hành liên tục và gắn với chương trình, kế hoạch công tác hàng tháng, hàng quý, hàng năm của chi bộ, với kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ lớn của Đảng ở cơ sở. Thành tựu của cuộc vận động không chỉ là ở số lượng đảng viên, chi bộ được công nhận bốn tốt mà còn được thể hiện ở việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của chiến đấu và sản xuất ở từng địa phương, với việc thực hiện các cuộc vận động lớn khác và các phong trào thi đua. Các điển hình chi bộ bốn tốt được xây dựng ở tất cả các ngành, các đơn vị sản xuất, đơn vị chiến đấu, ở các địa phương như chi bộ và đảng bộ Thắng Lợi (Thanh Hoá), Tân Phong (Thái Bình), chi bộ Cồn Cỏ, chi bộ đảng mỏ Hà Tu, chi bộ Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ… Với khí thế “bốn tốt”, các đảng viên và chi bộ phát huy tinh thần cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, đạt được những thành tích xuất sắc trong các lĩnh vực công tác của mình, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
VẬN DỤNG VÀO CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG HIỆN NAY
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết ba năm cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ bốn tốt, cũng như trong rất nhiều Huấn thị, Hồ Chí Minh nêu cao trách nhiệm và vai trò lãnh đạo của chi bộ “Đối với Đảng ta, xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng”(5). Với cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ “bốn tốt”, đồng chí Lê Đức Thọ nhấn mạnh cuộc vận động này là cuộc vận động kiện toàn sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trước rất nhiều vấn đề phức tạp, đa dạng, thường xuyên nảy sinh từ cơ sở, bên cạnh vai trò lãnh đạo mang tính vĩ mô, chiến lược của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, cần rất chú trọng vai trò hạt nhân lãnh đạo của chi bộ và tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức cơ sở đảng dù được thành lập ở loại hình đơn vị cơ sở nào, đều có vai trò là hạt nhân chính trị, là “sợi dây liên hệ giữa Đảng với quần chúng”. Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở”(6). Từ đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết hiện nay là “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(7). Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi chỉ có trên cơ sở sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của các tổ chức cơ sở Đảng mới đảm bảo sự hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu cho mỗi địa phương, đơn vị, cơ quan, từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu chung của đất nước.
Cần xác định rõ các tiêu chí đối với việc xây dựng một tổ chức cơ sở Đảng, mà quan trọng nhất là gắn với kết quả thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của đơn vị, địa phương. Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, ác liệt, Đảng nêu ra những yêu cầu cần đạt của một chi bộ, đảng bộ “bốn tốt”. Từ các tiêu chí đó gắn với nhiệm vụ của cách mạng, Đảng triển khai các hoạt động cụ thể trong lãnh đạo sản xuất, công tác quần chúng, công tác củng cố và phát triển Đảng. Thông qua hoạt động chỉ đạo thực tiễn, cán bộ đảng viên được rèn luyện, nắm sát hơn thực tiễn, nâng cao năng lực lãnh đạo, kiện toàn tổ chức Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Đồng thời, thông qua kết quả trong thực tiễn, sẽ bộc lộ năng lực của đảng viên, của tổ chức cơ sở Đảng. Đó mới là tiêu chí đánh giá khách quan nhất, chính xác nhất, đầy đủ nhất, là cơ sở để mỗi cán bộ đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng nói riêng và toàn Đảng nói chung tự nhìn nhận, tự sửa đổi và phát triển.
Trong cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ “bốn tốt”, Đảng đã nhận thức sâu sắc xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, cán bộ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình chuyển biến của số đông từ chi bộ, đảng bộ từ trung bình để thành bốn tốt là quá trình tăng cường công tác tư tưởng và kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác cán bộ, tổ chức. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, hướng tới mục tiêu cụ thể trong 5 năm tới và mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và 2045, công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng nói riêng “phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(8). Với các tổ chức đảng cơ sở cần rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; ban hành và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng đồng thời với việc phát triển đội ngũ đảng viên mới theo nguyên tắc “trọng chất hơn lượng”(9). Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là những công việc thường xuyên, hằng ngày mà mỗi tổ chức, mỗi cán bộ đảng viên phải tự giác thực hiện.
Đội ngũ cán bộ đảng viên ở cấp cơ sở là cấp gần dân, trực tiếp làm việc với dân cần tiếp tục rèn đức, luyện tài trong đó chú trọng đến phẩm chất cần có thích ứng với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế là “năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(10). Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy.
Bên cạnh đó, với việc thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng của cơ quan, đơn vị; cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân cùng cấp; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận sẽ đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Mặt khác, đặt ra trọng trách lớn hơn, yêu cầu cao hơn đối với người đứng đầu và tổ chức cơ sở Đảng trong việc nắm bắt thực tiễn và vận dụng quan điểm của Trung ương để đề ra chủ trương, chính sách kịp thời, phù hợp với điều kiện cụ thể cơ quan, địa phương, cũng như tổ chức triển khai, thực thi chính sách một cách hiệu quả và thực chất.
Trong cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ cơ sở “bốn tốt”, Trung ương Đảng chỉ ra phương pháp tiến hành phải biết gắn cuộc vận động vào sinh hoạt thường ngày của chi bộ, đảng bộ cơ sở; phải biết kết hợp cuộc vận động này với vận động quần chúng, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi như phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”…., nhân rộng những điển hình trên mọi lĩnh vực như “sóng Duyên Hải”, “gió Đại Phong”, “cờ Ba Nhất”… Thực tế chứng minh ở đâu có chi bộ “bốn tốt”, tổ đảng “bốn tốt”, ở đó có các đơn vị tiên tiến, đơn vị quyết thắng, tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng kinh nghiệm đó, trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cần gắn chặt chẽ công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức Đảng cơ sở với phong trào vận động quần chúng, “thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”(11). Qua rèn luyện trong phong trào quần chúng, gắn với đời sống thực tiễn, các đảng viên, tổ chức Đảng đã học kinh nghiệm phong phú, sáng tạo trong quần chúng để bổ sung cho chủ trương lãnh đạo, để nghị quyết của tổ chức Đảng phù hợp với thực tiễn, giúp mỗi đảng viên ý thức hơn việc nêu gương, làm gương trước nhân dân. Công tác quần chúng được tăng cường, sẽ xuất hiện các quần chúng ưu tú, là đối tượng để phát triển Đảng. Và với kết quả thực tiễn, với tấm gương “người tốt, việc tốt” sẽ lan tỏa giá trị tốt đẹp, ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, tiêu cực, hạn chế trong Đảng cũng như trong toàn xã hội./.
TS. Lê Thị Hằng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
__
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2003, t.23, tr. 95
(2) Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb. Thông tin lý luận, H, 1982, t.4, tr.181.
(3) (4) Lê Đức Thọ: Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự Thật, H, 1967, tr.183, 184.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.15, tr.98.
(6) (7) (10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. 2, tr. 185, 229, 229, 248.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr. 95.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.187.