Với phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá,
hiệu quả" ngay trong ngày đầu tiên của năm mới 2019, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành 2 Nghị quyết 01/NQ-CP và 02/NQ-CP của
Chính phủ để các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người
dân bắt tay ngay vào triển khai nhiệm vụ, mục tiêu năm 2019.
Với đà tăng trưởng mạnh mẽ của năm 2018, cùng tinh thần quyết liệt mạnh
mẽ ngay từ ngày đầu, tháng đầu của năm 2019, các chuyên gia kinh tế cho
rằng năm nay kinh tế Việt Nam sẽ có những bứt phá mới.
Những kịch bản tăng trưởng
Cuối năm 2018, trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế 2018, nhận định
những thuận lợi, thách thức cùng xem xét triển vọng phát triển của các
ngành, lĩnh vực, các nhân tố có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong năm 2019, các cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách,
chuyên gia kinh tế đã đưa ra các kịch bản dự báo tăng trưởng kinh tế cho
năm 2019.
Theo đó, dựa trên các biến số: tăng trưởng kinh tế giới; chỉ số giá tiêu
dùng thế giới; giá dầu thế giới; một số đánh giá tác động của Cuộc
chiến thương mại Mỹ-Trung; tỷ lệ đầu tư/GDP; tốc độ tăng lực lượng lao
động và biến động tỷ giá, biến động lãi suất; tăng trưởng tín dụng; nợ
công, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia đã đưa ra
hai kịch bản dự báo.
Đó là, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2019 sẽ dao động trong khoảng từ 6,84 - 7,02%.
Dựa trên các nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra 3 kịch bản trong thời gian tới.
Cụ thể, kịch bản 1 dựa trên giả thuyết điều kiện bình thường của nền
kinh tế, GDP tăng trưởng trung bình 6,86%/năm cho giai đoạn 2018 - 2020.
Kịch bản 2, con số này là 6,91% và kịch bản 3 là 7,06%.
Riêng năm 2019, Tổ tư vấn Kinh tế nhận định Việt Nam có thể phấn đấu đạt mức tăng trưởng từ 6,9 - 7% và lạm phát dưới 4%.
Tại Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019
(Nghị quyết 01), Chính phủ đã xác định rõ mục tiêu tăng trưởng của từng
ngành, từng lĩnh vực. Theo đó, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản được
xây dựng tăng trưởng 3%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng
8,57%; trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng mạnh nhất với 12,09%; ngành
khai khoáng tăng trưởng âm (giảm 4,4%).
Tăng trưởng GDP quý 1 ở mức tăng 6,93%; quý 2 tăng 6,7%; quý 3 tăng
7,03%; quý 4 tăng 6,63%. Cả năm 2019, tăng trưởng GDP là 6,8%.
Đặc biệt, tại Nghị quyết lần này, Chính phủ giao chỉ tiêu cụ thể cho
từng bộ liên quan ngành, lĩnh vực có trách nhiệm đôn đốc triển khai thực
hiện.
Nhìn vào các chỉ số trên cho thấy, so với năm 2018, Chính phủ xây dựng
mức tăng trưởng các ngành, lĩnh vực đều thấp hơn từ 0,76% đến trên 1%;
riêng lĩnh vực công nghiệp khai khoáng giảm mạnh nhất với 1,29%. Điều
này cho thấy, Chính phủ có sự thận trọng trước những thách thức từ tác
động của tình hình thế giới, trong nước và tiếp tục đi theo hướng giảm
dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản.
Hướng tới mục tiêu “kép”
Trong bài viết đánh giá về tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội trong năm 2018 và những định hướng trong năm 2019 của Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc nhân dịp đầu năm mới 2019, Thủ tướng đánh giá đất nước
bước vào năm 2019 trong bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước dự báo
tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với những thời cơ, thuận lợi và
khó khăn, thách thức đan xen.
Đó là kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại; chiến tranh thương mại,
biến động tỷ giá, lãi suất, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ
quốc tế gia tăng. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công
nghiệp lần 4.0 tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện.
Ở trong nước, kế thừa thành tựu hơn 30 năm đổi mới và tiếp tục đà phát
triển thuận lợi những năm gần đây, tiềm lực đất nước vững mạnh hơn
nhiều.
Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, nền kinh tế vẫn còn
nhiều tồn tại, yếu kém và những khó khăn, thách thức lớn. Cụ thể, chất
lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm, chưa bền vững; năng suất lao động,
năng lực cạnh tranh còn thấp. Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực đòi hỏi
nguồn lực lớn trong khi tiềm lực, sức cạnh tranh của khu vực kinh tế
trong nước còn thấp, chưa tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu. Ứng dụng công nghệ cao ở nhiều ngành, lĩnh vực còn hạn
chế. Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như
CPTPP, FTA với EU là áp lực lớn mà các cấp, các ngành và khu vực kinh tế
trong nước cần vượt qua để phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng,
hiệu quả.
Với những khó khăn, thách thức trên, để đạt được mục tiêu tăng trưởng
6,8% như đã đề ra, Việt Nam cần một sự bứt phá trong năm 2019.
Trả lời báo chí, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng
nhìn nhận: Bứt phá tựu chung lại là các giải pháp đồng bộ, quyết liệt để
thực hiện các nhiệm vụ được Trung ương, Quốc hội giao.
"Bứt phá còn là sự quyết tâm của cả đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động; hệ thống chính trị chứ không riêng các cơ quan của
Chính phủ,” Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho biết.
Theo đó, tại Nghị quyết 01, Chính phủ đã xác định một số nhiệm vụ trọng
tâm và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, nhân
dân cả nước bắt tay vào triển khai với một tinh thần tiến công.
Cụ thể, các bộ, ngành liên quan thực hiện việc điều hành chính sách tiền
tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng, phối hợp hài hòa với chính sách
tài khóa và các chính sách vĩ mô khác, nhất quán mục tiêu xuyên suốt là
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối
lớn của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Thực hiện hiệu quả các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường; điều chỉnh
giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý theo lộ trình và liều lượng
phù hợp. Cùng đó, siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; tăng
cường thanh tra, kiểm tra và công khai, minh bạch việc sử dụng ngân
sách nhà nước. Giám sát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng vốn vay; tiết
kiệm chi thường xuyên, không bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ chi chưa
thực sự cấp thiết. Phấn đấu đến cuối năm 2019, dư nợ công khoảng 61,3%
GDP, nợ Chính phủ khoảng 52,2% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia dưới 49%
GDP.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tiếp tục đổi mới các hình thức tổ chức sản
xuất nông, lâm, thủy sản; phát triển chuỗi từ sản xuất, chế biến đến
tiêu thụ, xuất khẩu phù hợp với điều kiện vùng, miền, sản phẩm, ngành
hàng; coi phát triển nông nghiệp hiệu quả cao là trọng tâm, ứng dụng
công nghệ cao, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản và phát triển thị
trường là khâu đột phá.
Về lĩnh vực công nghiệp, Chính phủ yêu cầu ngành công thương đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp; hoàn thiện cơ chế, chính sách để hỗ trợ
sản xuất trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa
hóa. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ, đưa vào vận hành các dự án công nghiệp
trọng điểm cùng với xử lý các dự án, doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ.
Đáng chú ý, năm 2019, ngành công thương chú trọng khuyến khích đầu tư
vào công nghiệp chế biến, chế tạo, phục vụ nông nghiệp, chế biến nông
sản, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ thông tin, điện tử-viễn thông...
Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục cải thiện mạnh
mẽ môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; phát triển mạnh
kinh tế tư nhân, tạo điều kiện hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn,
doanh nghiệp công nghệ.
Cùng với việc giao các nhiệm vụ cụ thể, Chính phủ cũng yêu cầu các bộ,
ngành, địa phương thường xuyên kiểm tra, giám sát tiến độ và kết quả
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; tổ chức giao ban hàng tháng/quý
kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết 01 đồng thời, chủ động xử lý
theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền giải pháp nhằm xử lý kịp
thời đối với những vấn đề phát sinh.
Theo tiến sỹ Đặng Đức Anh, Trưởng ban Phân tích và Dự báo, Trung tâm
Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để
đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2019, Chính phủ cần chỉ đạo tập
trung xây dựng và thực hiện cơ cấu lại ba trọng tâm trong cơ cấu nền
kinh tế gồm cơ cấu lại đầu tư công; cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, xúc tiến thương mại, mở rộng thị tường xuất
khẩu; đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa.
Đề cập tới giải pháp thúc đẩy thực thi chính sách, cải thiện môi trường
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo Nghị quyết 02 của
Chính phủ, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam Nguyễn Quang Thuấn
cho rằng, năm 2019, Chính phủ cần giải quyết tình trạng “tồn kho” chính
sách để tăng hiệu quả thế chế.
Theo đó, ông đề xuất Chính phủ cần giao cho Bộ Nội vụ hoặc thành lập một
Tổ với nhiệm vụ giúp việc cho Thủ tướng rà soát các chính sách; trong
đó chính sách nào tốt nhưng không được thực hiện, không bám sát được
thực tiễn hay vướng mắc để có biện pháp tháo gỡ. Đồng thời, Chính phủ
giao trách nhiệm cho từng bộ, ngành trong thiết kế và triển khai chính
sách. Từng bộ, ngành có bộ phận đánh giá hiệu quả, hiệu lực thực thi
từng giải pháp, chính sách.
Sau khi đã giao trách nhiệm cho từng bộ, ngành, Chính phủ cần thông qua
các kênh đa dạng khác nhau để lắng nghe phản hồi từ doanh nghiệp và
người dân cũng như từ chính quyền cơ sở. Nếu các chính sách thực thi yếu
thì người đứng đầu tổ chức ban hành các chính sách cần có trách nhiệm
giải trình và có lộ trình cụ thể để giải quyết vấn đề.
Khá lạc quan từ việc phân tích “đằng sau” những con số tăng trưởng của
năm 2018, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh, Học viện Tài chính ngân
hàng cho rằng, kinh tế Việt Nam đang có thay đổi về mặt chất lượng. Đây
sẽ là vấn đề cốt lõi góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2019.
Với các yếu tố tích cực từ đà tăng trưởng của năm 2018, một khung chương
trình hành động thực chất cùng việc phân công giám sát chặt chẽ, đặc
biệt là tinh thần quyết tâm từ Chính phủ tới các bộ, ngành, địa phương,
các chuyên gia kinh tế, tổ chức trong nước cho rằng, đó sẽ là cơ sở vững
chắc cho sự bứt phá nền kinh tế trong năm 2019.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng bày tỏ hy vọng: “Chúng ta có cơ sở để
lạc quan tin tưởng năm 2019 sẽ thành công “mục tiêu kép” là vừa giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng
GDP"./.
(TTXVN)