TIỂU VÙNG SÔNG MÊ CÔNG - TIỀM NĂNG VÀ CƠ HỘI HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
Tiểu
vùng sông Mê Công (còn được gọi là Đông Nam Á “lục địa”) với tổng diện
tích khoảng gần hai triệu km2, bao gồm 5 nước là
Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Tiểu vùng sông Mê Công
tiếp giáp với Trung Quốc và Ấn Độ; là điểm kết nối lục địa châu Á với
biển (phía Đông kết nối với Thái Bình Dương, phía Tây kết nối với Ấn Độ
Dương); là giao điểm của vùng Đông Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á; có giá
trị địa chiến lược nối liền Đông và Tây, chi phối cục diện chung toàn
khu vực Đông Nam Á, rộng hơn là vành đai Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Tiểu
vùng sông Mê Công nằm giữa những vùng kinh tế năng động và phát triển
nhất của châu Á hiện nay trong phát triển thương mại, đầu tư, kết cấu hạ
tầng. Tiểu vùng ngày càng đóng vai trò quan trọng, là “cầu nối” giữa
hai nền kinh tế đang nổi lên ở châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và các nước
thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); đồng thời, còn
là hành lang giao thương từ Nhật Bản, Trung Quốc đến Ấn Độ, Tây Á và Địa
Trung Hải. Vì vậy, Tiểu vùng mang giá trị chiến lược và lợi ích đặc
biệt quan trọng không chỉ đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á mà
còn cả với các nước ngoài khu vực. Với những giá trị về địa - chính trị,
kinh tế, an ninh như vậy, Tiểu vùng sông Mê Công chiếm một vị trí quan
trọng trong tương quan giữa các khu vực trên thế giới; đồng thời, là cơ
sở cho mục tiêu quan tâm, can dự và gây ảnh hưởng của các nước lớn đối
với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ - hai quốc gia đều
muốn gia tăng, mở rộng thương mại và đầu tư trực tiếp tại khu vực này.
Các
nước trong Tiểu vùng không chỉ chia sẻ chung dòng sông Mê Công mà còn
có nhiều nét văn hóa, xã hội và lịch sử tương đồng. Đây là nền tảng, cơ
sở hình thành nên một cách tự nhiên những mối quan hệ đa dạng, đa chiều
trong lịch sử quan hệ giữa các nước thuộc Tiểu vùng; là cơ sở vững chắc
và lâu dài trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, đặc biệt là trên
lĩnh vực kinh tế. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với tiến trình toàn cầu
hóa, liên kết hóa và đổi mới kinh tế, các nước Tiểu vùng sông Mê Công đã
đạt được nhiều thành tựu trong phát triển, trở thành khu vực hấp dẫn
đầu tư nước ngoài, không chỉ bởi lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá
rẻ và tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, mà còn bởi đây là khu
vực năng động, có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định.
Một
trong những động lực để các nước trong Tiểu vùng tăng cường liên kết,
phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường, nguồn nước
là xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, như: Ủy hội sông Mê Công quốc
tế (MRC), Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Chiến lược
hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)... Trong các
cơ chế hợp tác này, GMS được đánh giá là chương trình hợp tác hoàn chỉnh
nhất về thành viên trong Tiểu vùng mở rộng. Được thành lập từ năm 1992,
với sự trợ giúp của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), GMS có sự tham
gia của Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Vân Nam,
Quảng Tây (Trung Quốc). Sự hợp tác này được triển khai trên các lĩnh vực
trọng tâm là: 1) Giao thông tận tải; 2) Năng lượng; 3) Môi trường; 4)
Du lịch; 5) Bưu chính, viễn thông; 6) Thương mại; 7) Đầu tư; 8) Phát
triển nguồn nhân lực; 9) Nông nghiệp và phát triển nông thôn; 10) Quản
lý nguồn nước.
Với
mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân lưu vực sông Mê Công, các nước
tham gia GMS đã thỏa thuận hợp tác phát triển hạ tầng giao thông, năng
lượng, thương mại, du lịch, đào tạo nguồn nhân lực... Hợp tác phát triển
hạ tầng giao thông được ưu tiên hàng đầu và đạt nhiều kết quả nổi bật
nhất, hướng tới hình thành, xây dựng ba hành lang kinh tế chính, gồm:
Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang Kinh tế Bắc - Nam (NSEC)
và Hành lang Kinh tế phía Nam (SEC). Trong đó, EWEC tạo tác động lan
tỏa, lôi cuốn các vùng xung quanh vào luồng phát triển chung và là “chìa
khóa” để phát triển khu vực hạ lưu sông Mê Công. EWEC gắn hội nhập kinh
tế khu vực với công nghiệp hóa và tạo không gian mới để các nước Tiểu
vùng sông Mê Công hợp tác phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, EWEC góp
phần thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường liên kết trong Tiểu
vùng với các nước ASEAN cũng như với các nước khác trên thế giới. Với
tầm quan trọng về địa chiến lược của Tiểu vùng sông Mê Công, EWEC đã thu
hút sự quan tâm đặc biệt của các nước lớn, thông qua viện trợ, gia tăng
đầu tư cùng với sự hiện diện các định chế tài chính quốc tế như: ADB,
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Đầu tư kết cấu hạ tầng châu Á
(AIIB)... để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Đây chính là cơ hội rất lớn
cho các quốc gia trên tuyến EWEC có thể tăng cường hợp tác, sử dụng
hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cũng như
tạo ra một không gian bảo đảm an ninh và lợi ích quốc gia.
HÀNH LANG KINH TẾ ĐÔNG - TÂY TRONG THÚC ĐẨY HỢP TÁC PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG SÔNG MÊ CÔNG
Tháng
10/1998, Hội nghị lần thứ 8 các Bộ trưởng Tiểu vùng sông Mê Công mở
rộng được tổ chức tại trụ sở của ADB ở Manila (Philippines) đã đưa ra
thảo luận năm dự án hành lang; trong đó Hội nghị đã thống nhất ưu tiên
thực hiện dự án EWEC nhằm thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế giữa
bốn nước thành viên ASEAN là: Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Dự án
này được Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (tháng 12/1998) chính thức đưa vào
Chương trình Hành động Hà Nội, thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. EWEC đã
chính thức đi vào hoạt động và thông tuyến vào ngày 20/12/2006 với sự
kiện khánh thành cầu Hữu nghị 2 bắc qua sông Mê Công, nối Xavannakhet
(Lào) với Mukdahan (Thái Lan).
EWEC
là tuyến hành lang dài 1.450km, đi qua 13 tỉnh của 4 nước Myanmar,
Thái Lan, Lào và Việt Nam; bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang
Mon) đến cửa khẩu Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Myanmar - Thái Lan.
Ở Thái Lan, EWEC được bắt đầu từ Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh của nước này.
Ở Lào, tuyến hành lang này chạy từ tỉnh Xa văn Na khẹt đến cửa khẩu
Dansavanh và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo qua các tỉnh Quảng
Trị, Huế và thành phố Đà Nẵng. EWEC còn là con đường huyết mạch nối liền
GMS với không gian kinh tế sông Hằng (Ấn Độ), góp phần rút ngắn khoảng
cách và phí tổn cho việc mở rộng giao lưu kinh tế giữa Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương; đồng thời, nằm trên tuyến đường xuyên Á, cầu nối giữa
thị trường Trung Quốc rộng lớn với khu vực ASEAN.
Hành lang Kinh tế Đông - Tây (EWEC). (Nguồn: greatermekong.org)
Về mục tiêu,
EWEC hướng tới lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia thành
viên nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thúc đẩy phát
triển giao lưu thương mại, đầu tư giữa các nước; góp phần xóa đói, giảm
nghèo, hỗ trợ phát triển các khu vực dọc biên giới, các vùng nông thôn
và gia tăng thu nhập cho người dân. Đây là cơ hội để các quốc gia tiếp
cận gần hơn nữa với các nguồn tài nguyên khoáng sản, hải sản và năng
lượng, phục vụ cho các ngành sản xuất và chế biến; tạo điều kiện phát
triển cho các thành phố, thị trấn, thị xã dọc hành lang EWEC, đồng thời
thúc đẩy thương mại xuyên biên giới; thu hút đầu tư từ các quốc gia, khu
vực và thế giới. Hơn nữa, EWEC tạo môi trường phát triển cho các hoạt
động kinh tế thông qua việc sử dụng hiệu quả không gian, địa lý, góp
phần hình thành khu vực kinh tế xuyên quốc gia; tạo điều kiện mở cửa cho
hàng hóa của các địa phương và các nước nằm dọc hành lang này thâm nhập
các thị trường đầy tiềm năng của Nam Á, Đông Á và châu Âu. EWEC còn tạo
ra cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ ngoài khu vực
thông qua việc kết nối với các thị trường quốc tế và với khu vực Đông Á,
vì vậy, EWEC được kỳ vọng trở thành hành lang hợp tác hữu nghị, cùng
phát triển của các nước trong và ngoài khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn
nhau, đan xen lợi ích kinh tế và an ninh giữa các nước trong khu vực với
các đối tác phát triển khác, góp phần cải thiện môi trường an ninh biên
giới dọc tuyến hành lang EWEC, củng cố sự ổn định, phát triển ở khu
vực.
Về nguyên tắc,
EWEC được ưu tiên triển khai bởi GMS. Vì vậy, EWEC cũng phải tuân thủ
theo các nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động của GMS. Hợp tác EWEC
phải dựa trên nguyên tắc chung (tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ
quyền quốc gia) và sáu nguyên tắc hợp tác cụ thể đã được các Bộ trưởng
GMS thông qua, bao gồm: Thứ nhất, hợp tác GMS phải tạo điều
kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân
trong Tiểu vùng. Các chương trình và dự án GMS cần phản ánh sự cân bằng
giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo
và bảo vệ môi trường; thứ hai, các dự án có thể thu hút một số
quốc gia trong Tiểu vùng và không nhất thiết phải bao gồm cả sáu nước.
Các thỏa thuận song phương trong Tiểu vùng là bộ phận cấu thành của hợp
tác Tiểu vùng; thứ ba, việc cải tạo hoặc khôi phục những cơ sở hiện có được ưu tiên cao hơn việc xây dựng những cơ sở mới; thứ tư, khuyến khích tài trợ cho các dự án Tiểu vùng từ nguồn vốn chính phủ và tư nhân; thứ năm, các nước thành viên Tiểu vùng cần thường xuyên gặp gỡ, trao đổi để duy trì động lực thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển; thứ sáu, các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào, bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai.
Từ
khi thành lập đến nay, tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc
EWEC đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận thông qua các dự án hợp tác
đầu tư, thương mại, công nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng; chuyển
giao công nghệ; giao lưu văn hóa nhằm xóa đói, giảm nghèo, phát triển
nông thôn, nâng cao đời sống của người dân. Trong đó, lĩnh vực phát
triển mạnh nhất, nổi bật nhất là hợp tác trong lĩnh vực giao thông, vận
tải, với tuyến đường Đông - Tây đầu tiên xuyên suốt từ Biển Đông đến các
cảng biển của Mi-an-ma, ven Vịnh Ben-gan trên Ấn Độ Dương, tạo điều
kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế EWEC và GMS. EWEC tạo điều kiện phát
triển một hệ thống giao thông đạt hiệu quả cao, cho phép hàng hóa và
hành khách lưu thông trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng mà
không gặp trở ngại hay chi phí cao, đưa sự liên kết vùng trở thành một
cửa ngõ phát triển của Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, thâm nhập các thị
trường đầy tiềm năng của các nước khu vực Nam Á và Tây Á. Với cực Đông
là thành phố Đà Nẵng, EWEC kết nối trực tiếp Tiểu vùng ra Thái Bình
Dương, mở ra cơ hội rất lớn cho các quốc gia trong việc rút ngắn quãng
đường trung chuyển hàng hóa xuất khẩu đi các nước Đông Bắc Á và châu Mỹ(1).
Việc khai thác tiềm năng, lợi thế của mỗi nước từng bước được cải
thiện, tạo điều kiện cho các vùng và địa phương thuộc EWEC phát triển
mạnh hơn về kinh tế, văn hóa, phát triển nguồn nhân lực và giáo dục -
đào tạo... Đồng thời, EWEC góp phần kết nối các di sản văn hóa thế giới
của các nước trong khu vực cũng như tạo ra những điều kiện thuận lợi thu
hút đầu tư, thương mại và du lịch của thế giới vào EWEC nói riêng và
ASEAN nói chung. Vì vậy, EWEC không chỉ gắn kết các nền kinh tế các quốc
gia Tiểu vùng Mê Công mà còn là cầu nối hợp tác, liên kết kinh tế và
phát triển giữa các nước bên bờ Thái Bình Dương với các nước bên bờ Ấn
Ðộ Dương và vươn xa tới Tây bán cầu. Điều này còn góp phần tăng cường an
ninh mỗi nước và khu vực, tăng cường hợp tác hữu nghị giữa các nước,
hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng Kinh tế (AEC) vào năm 2025.
Tuy
nhiên, các địa phương dọc hành lang EWEC hầu hết còn nghèo, trình độ
phát triển thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ; xa cách về mặt địa lý và xa
các trung tâm, đô thị phát triển. Kết cấu hạ tầng giao thông còn kém
phát triển, thiếu đồng bộ, cơ chế phối hợp giữa các địa phương trên toàn
tuyến EWEC vẫn còn yếu. Hơn nữa, theo cùng các xu thế lớn như tự do
hóa, toàn cầu hóa và liên kết..., nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực an ninh
hoặc các vấn đề liên quan khác ở Tiểu vùng Mê Công đòi hỏi cần có sự hợp
tác song phương hay đa phương trên các cấp độ quốc gia, khu vực, toàn
cầu mới có thể giải quyết được. EWEC ra đời và chính thức đi vào hoạt
động cũng tạo ra không gian mới và làm nảy sinh những vấn đề mới liên
quan đến an ninh quốc gia ở mỗi nước Tiểu vùng Mê Công và ở cấp độ khu
vực.
Bên cạnh đó, quá trình thực hiện mục tiêu chung của EWEC còn đang phải đối mặt với nhiều thách thức: Một là,
cạnh tranh giữa nước lớn, nhất là cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc tại
khu vực này diễn ra ngày càng gay gắt, khiến các nước Tiểu vùng ở vào
thế khó xử trong việc lựa chọn và ưu tiên đối tác hợp tác, điều này đã
làm phân tán nguồn lực trong thúc đẩy hợp tác phát triển ở Tiểu vùng; hai là,
với những động thái nhằm gia tăng tầm ảnh hưởng của các nước lớn tại
khu vực, các nước Tiểu vùng sẽ đứng trước thách thức bị lôi kéo, chi
phối và phụ thuộc vào các nước lớn/các đối tác phát triển; sự đoàn kết,
thống nhất gắn kết nội khối giữa các nước Tiểu vùng, đối diện với nhiều
khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò trung tâm của Cộng đồng ASEAN;
ba là, các nước Tiểu vùng sẽ phải đối mặt với nguy cơ rơi vào
“bẫy” của các nền kinh tế tăng trưởng dựa vào nguyên liệu; trở thành thị
trường cho hàng hóa và công nghệ lạc hậu, chịu các hệ lụy đến từ môi
trường, cạn kiệt tài nguyên... do thiếu quy hoạch phát triển bền vững,
đe dọa trực tiếp đời sống, sản xuất của người dân ở lưu vực sông Mê
Công; bốn là, vấn đề giao thông đi lại thuận tiện qua khu vực
biên giới cũng đặt ra thách thức đối với các nước Tiểu vùng trong việc
ngăn ngừa các hoạt động thâm nhập nội địa của các tổ chức tội phạm xuyên
quốc gia; mua bán trái phép chất ma túy, mua bán phụ nữ, trẻ em; vấn đề
di dân, xây dựng các khu định cư lâu dài theo các dự án kinh tế, nhất
là tại các vùng biên, các vùng có vị trí chiến lược quan trọng, có thể
làm xáo trộn đời sống sinh hoạt của người dân địa phương, làm nảy sinh
xung đột, gây bất ổn về an ninh, trật tự và là mối đe dọa tiềm tàng đối
với vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia thuộc Tiểu
vùng.
Với
những khó khăn và thách thức như vậy, việc thúc đẩy EWEC đạt hiệu quả
hơn trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội chính là một vấn đề cấp
thiết hiện nay. Một EWEC hiệu quả sẽ góp phần quan trọng vào lộ trình
xây dựng AEC 2025; hiện thực hóa mục tiêu mở rộng khu vực mậu dịch tự do
về phạm vi và nâng cao về mức độ tự do hóa; về cơ bản không còn thuế
quan đối với hàng hóa và có sự lưu chuyển thông thoáng hơn về dịch vụ,
đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, thúc đẩy kết nối với các nền kinh
tế lớn trên thế giới, tăng cường hơn nữa xu thế hòa bình, hợp tác phát
triển ở Tiểu vùng sông Mê Công. Hơn nữa, khi EWEC vươn xa tới khu vực
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương sẽ tạo ra nguồn lực kinh tế mạnh mẽ, góp
phần giúp ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với các nước trên thế giới, mở
rộng thị trường xuất khẩu, phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả
hơn, nâng cao sức cạnh tranh; đồng thời, làm cho môi trường đầu tư tại
khu vực ASEAN ngày càng trở nên hấp dẫn hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp ở
những nước kém phát triển hơn, như Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma... tham
gia sâu vào các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.
Cảng Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng) - điểm cuối của tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây. (Nguồn: danangport.com
Đối
với Việt Nam, lưu vực sông Mê Công có ý nghĩa chiến lược về kinh tế -
xã hội, môi trường, sinh thái và an ninh, quốc phòng. Về cơ bản, mục
đích của những chương trình hợp tác tại Tiểu vùng Mê Công đều phù hợp
với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Bởi vậy, Việt Nam luôn ủng hộ và tham gia tích cực, là thành viên của
hầu hết các chương trình hợp tác tại Tiểu vùng Mê Công, trong đó có hợp
tác trên tuyến EWEC. Việt Nam nằm ở vị trí “đắc địa” của hành lang EWEC,
kết nối các nền kinh tế Ấn Độ và Nam Á tới Tiểu vùng Mê Công, kết nối
qua Biển Đông tới các nền kinh tế ASEAN “biển đảo” và các nước khác; góp
phần tạo ra những “đại lộ” kinh tế, thương mại nằm ngoài các hành lang,
tuyến đường được tạo nên bởi các sáng kiến, hợp tác như Sáng kiến “Vành
đai, Con đường” (BRI), Hợp tác Mê Công - Lan Thương (MLC)...
Điều này đã được thể hiện qua việc Việt Nam thu hút được các dự án đầu
tư nước ngoài vào các tuyến đường bộ thuộc hành lang Đông - Tây và các
cảng biển. Trong khoảng hai thập niên gần đây, nhiều nguồn vốn được huy
động ngoài ngân sách để đầu tư phát triển các hệ thống cảng biển tại
Việt Nam với sự tham gia của các doanh nghiệp vận tải biển lớn trên thế
giới. Nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vận tải và điều
hành khai thác cảng biển trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam để hình
thành các mô hình liên doanh đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển. Hệ
thống kho vận, cảng cụm công nghiệp hiện đại, có quy mô lớn, như Khu
kinh tế Nghi Sơn, Vũng Áng - Sơn Dương, Dung Quất... trên trục kết nối
Đông - Tây giúp tạo ra một không gian phát triển mới, bền vững. Đây là
nền tảng thuận lợi để cảng biển Việt Nam trở thành một mắt xích quan
trọng trong EWEC và chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải,
khai thác cảng biển hàng đầu thế giới.
Có
thể nói, EWEC đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực đối với các
nước dọc tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây. Sự phát triển về giao thông
vận tải thông qua việc kết nối với nhiều tuyến đường huyết mạch đã tạo
điều kiện giúp các địa phương có EWEC chạy qua tiếp cận dễ dàng hơn với
các trung tâm kinh tế. Nhưng để khai thác tối đa những lợi ích do EWEC
mang lại thì các nước cũng cần phải mở rộng thị trường nội địa của mình
để các nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia cạnh tranh bình đẳng dựa
trên nền tảng những nguyên tắc của GMS và các hiệp định đã ký kết giữa
ASEAN với các nước khác./.
TS. Bùi Thanh Tuấn
Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an
Bộ Công an
__________________
(1) Giới thiệu về Hành lang kinh tế Đông - Tây, http://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/gioi-thieu-ve-hanh-lang-kinh-te-%C4%91ong-tay-11104-22.html
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)