NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY HỒ CHÍ MINH
Đề cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đây là nội dung bao trùm và điển hình nhất trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Trong phương pháp tư duy của Người, độc lập
đồng nghĩa với không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi bất kỳ
một lý luận nào nếu không có sự đánh giá cẩn trọng, khoa học của chủ
thể. Mặc dù con đường nhận thức chân lý bao giờ cũng có sự kế thừa,
nhưng là sự kế thừa biện chứng, kế thừa và phát triển với tính độc lập
của chủ thể nhận thức, không phải là sự bắt chước, rập khuôn cách máy
móc. Tự chủ có nghĩa là xuất phát từ vị trí, vai trò của mình,
chủ thể tự thân làm chủ mọi suy nghĩ, hành vi của mình, làm chủ công
việc của mình, tự thấy mình phải có trách nhiệm với tập thể, với quốc
gia, với dân tộc mình. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ,
cái lạc hậu, cái không còn phù hợp đang cản trở sự phát triển; đồng
thời, tìm kiếm, học hỏi, đề xuất những cái mới có khả năng đáp ứng những
đòi hỏi của cuộc sống.
Tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh
hình thành từ sớm, bộc lộ càng rõ trong quá trình Người tìm đường cứu
nước. Đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin
thì tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo càng được nâng cao, đã trở thành
một phẩm chất bền vững, được thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người. Chính điều đó đã làm cho tư duy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khác biệt so với tư duy của các nhà yêu nước tiền bối và đương
thời, như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường... về con đường cứu nước, mặc dù không ai phủ nhận các ông đều
mong muốn giành độc lập cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
trong mọi hoạt động thực tiễn của mình. Người đã tư duy để đối chiếu, so
sánh, chắt lọc và tổng hợp những dữ liệu, những kinh nghiệm mà cuộc
sống đã đem lại, những tư tưởng của các thế hệ đi trước đã gợi mở, để từ
đó đi đến những nhận định mới, những kết luận mới và những tư tưởng
mới. Phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh dựa trên cơ sở tính cách mạng triệt để, tính biện chứng chặt chẽ và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ đó, Người đã từng bước xác lập
cả một hệ thống tư tưởng, luận điểm sáng tạo của riêng mình.
Quyết tâm vượt lên mọi thành kiến tư tưởng.
Đối
với mỗi con người, để vượt qua được những thành kiến do lối mòn tư
tưởng cũ chi phối là một việc không dễ. Trong khi đó, khác với tất cả
những nhà yêu nước đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết vượt lên
những thành kiến tư tưởng và thể hiện năng lực làm chủ bản thân rất cao.
Không đi theo con đường cứu nước mà các vị tiền bối đã thực hiện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh quyết định đi ra nước ngoài, tới chính đất nước của kẻ
thù đang giày xéo, đặt ách thống trị lên Tổ quốc mình để tìm đường cứu
nước, cứu dân, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, để tìm hiểu xem
những gì ẩn giấu “đằng sau khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái là gì?”.
Liệu người dân ở đó có được tự do, bình đẳng và hạnh phúc thực sự hay
không?
Ngay
từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không đồng tình với ý kiến
cho rằng, Đông Dương chưa thể tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin do giai
cấp vô sản ở Đông Dương chưa phát triển. Cùng với đó, Người đã tích cực
tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản của
V.I. Lê-nin và kiên quyết đấu tranh cho tư tưởng này được hiện thực hóa
trên thực tế. Nguyễn Ái Quốc đề nghị: “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa
xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”(1). Từ những điều
kiện lịch sử - xã hội của các nước phương Đông, Người nhận thấy chủ
nghĩa cộng sản hoàn toàn có thể thâm nhập, tồn tại và phát triển ở châu
Á, thậm chí còn dễ dàng hơn so với châu Âu: “những lý do lịch sử cho
phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”(2).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ cũng như bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Pháp. Tuy nhiên, Người không chỉ dừng lại ở việc trích dẫn 2 bản
tuyên ngôn đó, khẳng định quyền tự do của mỗi cá nhân như tinh thần của 2
bản tuyên ngôn này, mà còn khẳng định quyền độc lập, tự do và quyền
bình đẳng cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Gắn lý trí với những tình cảm trong sáng, tình yêu thương con người, thực hiện công cuộc xây dựng và cải tạo xã hội.
Cốt
lõi của tình cảm cách mạng là đạo đức cách mạng. Tình cảm cách mạng là
khởi nguồn để có sáng tạo cách mạng. Khi tình cảm đã nhạt phai thì trí
tuệ cũng sẽ chịu ảnh hưởng không tốt. Ngược lại, tình cảm mù quáng thì
lý trí sẽ mất phương hướng. Tình cảm có những quy luật riêng của mình.
Nếu là xúc cảm nhất thời, nó thường đi đôi với nhận thức cảm tính, bồng
bột, thoáng qua và thiếu bền vững. Song ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, những
tình cảm trong sáng, rất mãnh liệt bao giờ cũng chịu sự điều chỉnh,
hướng dẫn chặt chẽ của lý trí. Đó là bởi, tình cảm của Người dựa trên sự
thấu hiểu sâu sắc về con người, điều chỉ có ở một nhân cách lớn. Cả
cuộc đời của Người là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, về
sự thống nhất giữa lý trí với những tình cảm trong sáng, thấm đẫm tình
yêu thương con người.
Ngay
từ khi còn nhỏ, Người đã xúc động trước tình cảnh người dân trên quê
hương mình bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột, hành hạ một cách dã man. Có
thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, cho nên đi tới đâu Người cũng chú ý tới hai cảnh
sống trái ngược giữa nhân dân lao động với tầng lớp thống trị, giữa
người bóc lột và người bị bóc lột; đồng thời, luôn có sự thấu cảm sâu
sắc trước những khó khăn, tủi nhục, vất vả của những người bị bóc lột và
cuộc sống lầm than của nhân dân lao động.
Tình
yêu thương đồng bào, Tổ quốc và tình yêu thương con người đã đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, chính lý luận cách mạng Mác -
Lênin cũng nâng tầm những tình cảm trong sáng của Người, giúp Người có
thêm nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và luôn lạc quan, tin
tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu rất sâu sắc và độc đáo về chủ nghĩa
Mác - Lênin. Người cho rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không
chỉ bao gồm các khái niệm trừu tượng, các quy luật, phạm trù và chỉ
thuộc về nhận thức lý trí, mà còn bao hàm cả tình nghĩa, tức là gồm cả
phương diện đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hiểu chủ nghĩa
Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
Mác-Lênin”(3).
Lý
luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn với những phong trào hành động
nhằm xây dựng và cải tạo xã hội. Người cho rằng, tư duy lành mạnh tự nó
bao giờ cũng hướng tới hành động cải tạo thực tiễn, cải thiện cuộc sống
con người. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng đầy sôi nổi, phong phú và
gian khổ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mục tiêu chiến
lược, đồng thời biết vận dụng sách lược một cách khôn khéo để đưa cách
mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Trong bức thư gửi các bạn cùng hoạt động ở
Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không
thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân
tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào
quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu
tranh giành tự do độc lập”(4).
Coi
trọng, gắn kết điều kiện khách quan với phát huy nỗ lực chủ quan, kết
hợp hài hòa giữa lý luận, thực tiễn và có tính tự giác cao.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới những điều kiện khách quan của cách
mạng, đồng thời phát huy tính tích cực của nhân tố chủ quan để đề ra
cương lĩnh chiến lược cách mạng một cách phù hợp. Chánh cương vắn tắt
của Đảng (năm 1930) do Người soạn thảo có đoạn viết: “Tư bản bản xứ đã
thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho
công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một
tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều.
Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe
đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế
quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(5). Sau này, các văn
kiện của Đảng đã ấn định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam
là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến thẳng lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Khi
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhận định về tình hình đất nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước
thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa
vào quần chúng nhân dân rộng rãi... với sự đồng tình và ủng hộ của phong
trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng
mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”(6). Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên những điều kiện khách quan, kết hợp với
nhân tố chủ quan, trong đó có năng lực cá nhân xuất chúng, nhãn quan sắc
bén để đề ra các chủ trương, đường lối đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng công tác tổng kết lý luận; bởi
vì, theo Người, đó là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người trên
tất cả mọi lĩnh vực. Người cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên
và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”(7). Do đó,
nếu kế thừa được những kinh nghiệm đã được tổng kết thành lý luận, mỗi
cá nhân sẽ có điều kiện nâng cao năng lực của bản thân để phát triển tốt
hơn.
Phương pháp tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc xem trọng nhân tố tự giác. Người
cho rằng, nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác
tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân trong xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong mỗi con người đều có hai mặt đối lập: Thiện và ác, hay và
dở, tốt và xấu,... Do vậy, điều quan trọng là, mỗi người phải dám nhìn
thẳng vào bản thân mình, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, phát huy những cái
thiện, cái hay, cái tốt, đồng thời khắc phục cái ác, cái dở, cái xấu.
Trong lần nói chuyện với thanh niên sinh viên tại Đại hội sinh viên Việt
Nam lần thứ II năm 1958, Người nhấn mạnh: “Thanh niên bây giờ là một
thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo
tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên
phải có đức, có tài”(8).
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan
trưng bày Cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp”
(SV_STARTUP). (Ảnh: TTXVN)
Thường xuyên tổng kết kinh nghiệm và chủ động nắm lấy những tri thức mới.
Quá
trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là quá trình không
ngừng học tập, rèn luyện qua thực tiễn cách mạng. Trong quá trình đó,
Người thường xuyên tổng kết kinh nghiệm và luôn có ý thức tìm tòi, nắm
lấy những tri thức mới.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là một người rất nhạy cảm về chính trị. Sau khi gửi
Bản yêu sách gồm tám điều của dân tộc Việt Nam tới Hội nghị Véc-xây
(Pháp), Người đã nhận ra “cái bánh vẽ” chính trị mà chủ nghĩa đế quốc Mỹ
đưa ra để gạ gẫm các dân tộc. Người nhấn mạnh “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là
một trò bịp bợm lớn. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới(9).
Kết luận quan trọng này là tiền đề tư tưởng quan trọng của chiến lược
“dựa vào sức mình là chính” của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, kết tinh đỉnh cao của tinh thần dân tộc,
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khi tin tưởng tuyệt đối
vào sức mạnh của nhân dân, đoạn tuyệt với quan điểm “cầu viện” để giải
phóng dân tộc. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I. Lê-nin, Người đã đứng hẳn về Quốc tế III, về phía V.I. Lê-nin,
kiên quyết đấu tranh chống khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong nội bộ
Đảng Xã hội Pháp, và đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Đối với Người, mỗi lần phê phán cái sai lầm là mỗi lần
tổng kết và rút ra được kinh nghiệm quý báu cho bản thân cũng như để
hướng dẫn những cộng sự của mình.
Không
bằng lòng với những tri thức thu lượm được ở đất Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã bôn ba khắp các châu lục để khám phá, tìm hiểu, thâu thái thêm
những tri thức mới. Người đã chứng kiến cuộc sống khổ nhục của những
người dân mất nước dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Đông Dương.
Người đã phẫn nộ lên án chế độ tự xưng là “văn minh” nhất nhân loại ở
Anh, Pháp, Mỹ. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui mừng khi thấy cuộc
sống mới trên quê hương Cách mạng Tháng Mười Nga. Đi đến đâu, Người cũng
quan sát và suy nghĩ, chiêm nghiệm để tự rút ra những bài học kinh
nghiệm cho bản thân mình. Bằng sự nghiên cứu nghiêm túc nhất, với tinh
thần trách nhiệm cao nhất trước dân tộc và giai cấp, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng đã giương cao ngọn cờ
cách mạng dân tộc dân chủ lại càng chứng tỏ rõ rệt vai trò của giai cấp
vô sản và đảng của nó trong phong trào giải phóng dân tộc”(10).
GIÁ TRỊ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG CƯỜNG HỌC TẬP VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Qua
hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực, chính trị luôn ổn định, an
ninh quốc phòng được giữ vững. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải
thiện đáng kể. Theo đó, tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có những
đổi mới nhất định (về trình độ cũng như phương pháp tư duy). Tuy nhiên,
sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
thế giới có nhiều thay đổi khó lường, đặc biệt là sự phát triển không
ngừng của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, còn gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Trong khi đó, trình độ hiểu biết về lý luận, thực tiễn
của nhiều cán bộ, đảng viên hiện nay còn nhiều hạn chế. Phong cách tư
duy của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn biểu hiện của lối tư duy
giáo điều, bảo thủ, trì trệ, khuôn sáo, máy móc. Đó là những suy nghĩ
chủ quan, duy ý chí, chưa thật sự dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Lối tư duy nôn nóng, giản đơn, đại khái, yếu về logic, thiếu hệ thống,
luôn chạy theo mong muốn chủ quan của cá nhân vẫn còn tồn tại; đặc biệt,
một số cán bộ, đảng viên có những biểu hiện của sự tách rời giữa tình
cảm, đạo đức cách mạng và lý trí khoa học.
Do
đó, yêu cầu bức thiết đặt ra hiện nay là phải xây dựng phương pháp tư
duy khoa học cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cụ thể như sau:
Một là,
chú trọng nâng cao tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Sau khi thấm nhuần phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng phải có khả năng dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá, không lệ thuộc, rập khuôn, bắt chước người khác; có năng lực và bản
lĩnh bảo vệ được quan điểm, chính kiến của mình; tự mình làm chủ mọi
suy nghĩ, hành động, không bị a dua theo người khác; tự giác tìm tòi để
sáng tạo, sẵn sàng tiếp thu cái mới, từ bỏ cái đã lỗi thời. Từ đó, đội
ngũ cán bộ, đảng viên sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ chính trị.
Hai là,
khắc phục những thành kiến trong tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thực chất vấn đề này là, chống chủ nghĩa giáo điều - giáo điều sách vở,
giáo điều trong việc học tập kinh nghiệm của người khác; qua đó, giúp họ
vượt lên trên những thành kiến, không lệ thuộc vào tập quán cũ, lạc
hậu, biết giữ gìn và phát triển những tư tưởng truyền thống còn phù hợp,
tiếp thu một cách có chọn lọc những tư tưởng mới, chủ động đề xuất
những sáng kiến, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Ba là,
nâng cao nhận thức, giáo dục, giúp cán bộ, đảng viên biết kết hợp giữa
lý trí với tình cảm trong sáng, làm điều gì cũng luôn đặt lợi ích của
tập thể, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Biết yêu
thương con người, luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ người khác, coi niềm
vui, hạnh phúc của người khác cũng là niềm vui và hạnh phúc của mình.
Lịch sử đã chứng minh rằng, những cá nhân nặng về lý trí mà thiếu tình
cảm thì sớm hay muộn họ cũng sẽ rời bỏ con đường mà mình đã chọn. Không
ít người vì thiếu một tình yêu trong sáng và mãnh liệt, không biết yêu
thương, nghĩ đến người khác nên họ đã bị những cám dỗ ích kỷ, tầm thường
trong cuộc sống cá nhân, dễ dẫn đến thoái hóa, biến chất, hư hỏng, trở
thành những kẻ cơ hội, hại nước, hại dân, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, của dân tộc.
Bốn là,
trang bị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phương pháp tư duy thúc đẩy tính
tự giác cao, phát huy tối đa năng lực chủ quan và coi trọng điều kiện
khách quan, có khả năng kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, góp
phần bổ sung phát triển lý luận trên cơ sở hoạt động thực tiễn và phù
hợp với điều kiện thực tiễn để hoàn thành tốt mọi công việc được giao.
Khi nắm vững phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ
luôn có tính tự giác cao và biết vận dụng, thường chủ động xây dựng các
kế hoạch, đề ra biện pháp cụ thể để triển khai công việc của mình một
cách khoa học, hiệu quả.
Năm là,
tăng cường tổng kết, đúc kết những kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo;
phát hiện những gương điển hình tiên tiến để giáo dục, nêu gương cho
đảng viên và quần chúng noi theo; xem xét kinh nghiệm, cách làm hay của
cán bộ, đảng viên và cá nhân khác để áp dụng cho phù hợp với bản thân
mình. Bên cạnh đó, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh cũng giúp cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên có khả năng tìm tòi, suy nghĩ, chủ động tiếp thu tri
thức mới để bổ sung vào kinh nghiệm đã tích lũy, từ đó có phương pháp
phù hợp để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
Hiện
nay, đứng trước những nhiệm vụ cách mạng mới, để giải quyết những vấn
đề phong phú, sinh động, phức tạp mà cuộc sống đặt ra, không có con
đường nào khác ngoài con đường nâng cao phương pháp tư duy, nhất là tư
duy lý luận. Trong đó, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là một mẫu mực,
vẫn còn giữ nguyên giá trị và lợi ích thiết thực. Do vậy, việc nghiên
cứu, học tập, vận dụng phương pháp tư duy Hồ Chí Minh để nâng cao năng
lực tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là một yêu cầu bức
thiết, cần được triển khai một cách toàn diện, sâu sắc và có hệ thống./.
TS. Nguyễn Duy Quỳnh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội
_______________________
(1) (2) (4) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.1, tr.35, 47, 209, 441.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.668.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
(6) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.31-32, 30.
(7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.96, 399.
(Nguồn: TC Cộng sản)