(TG)- Với người dân ven biển, rừng ngặp mặn chính là “dải đê xanh” vững chắc, góp phần ngăn chặn rủi ro từ những cơn cuồng phong, bão tố; giúp họ yên tâm hơn mỗi khi bão đến.
Ngồi thảnh thơi bên dải rừng với hàng trăm nghìn cây xanh đang thẳng mình vươn cao, bà Bùi Thị Dìn ở xã Đa Lộc (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) say sưa ngắm nhìn khóm rừng ngập mặn do chính tay mình trồng trước cửa biển; lấp ló dưới ánh nắng là những tán lá xanh mướt điểm xuyết cùng từng chùm hoa trắng li ti...
Với người dân ven biển, đó chính là “dải đê xanh” vững chắc, góp phần ngăn chặn rủi ro từ những cơn cuồng phong, bão tố. Như bà Dìn chia sẻ: “Từ khi có dải rừng ngập mặn này, bà con ven biển chúng tôi đã yên tâm hơn mỗi khi bão đến.”
“Dải đê xanh” bảo vệ dân trước sóng, bão
Trong câu chuyện với người viết, bà Dìn kể bắt đầu tham gia trồng rừng ngập mặn từ năm 2007. Đến nay, bà không nhớ chính xác mình đã tự tay trồng bao nhiêu cây ngập mặn, nhưng theo ước tính của người phụ nữ đang đảm nhận vai trò Chi hội trưởng phụ nữ thôn Yên Lộc, đó là con số “khổng lồ,” lên đến hàng nghìn cây.
Cũng theo bà Dìn, trước đây - khi mới tham gia trồng, do cửa biển sóng lớn, kết hợp với rác thải dồn về (túi nilon, rác thải nhựa bám vào cành cây, dồn thành từng đống lớn), nên rất nhiều cây không thể sống, tỷ lệ cây phát triển cũng rất hạn chế.
Về sau, nhờ có dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với những tác động liên quan đến biến đổi khí hậu cho các cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển Việt Nam” (trong đó hợp phần 2 - trồng rừng ngập mặn) của Chính phủ, hỗ trợ bởi UNDP và Quỹ Khí hậu xanh, bà con được hướng dẫn kỹ thuật trồng; cùng sự “chung tay” thu gom rác của cộng đồng, nên các loài cây bần chua, sú, vẹt phát triển rất nhanh.
“Những cơn bão mạnh vừa qua, cây ngập mặn đã trở thành bức tường vững chắc, bảo vệ an toàn cho người dân trong thôn, trong xã. Tự hào mà nói là, nhờ có cánh rừng này, chúng tôi đã yên tâm hơn mỗi khi bão đến,” bà Dìn hồ hởi chia sẻ.
Chỉ vào khu rừng ngập mặn mới trồng hơn một năm, ông Bùi Quyết Chiến, thôn Yên Lộc, xã Đa Lộc cũng bày tỏ vui mừng khi thôn của ông đã có một dải rừng vững chắc, tựa như “bức tường xanh” chắn bão trước cửa sông, cửa biển.
“Từ khi có dải rừng này, thôn tôi không còn lo bị bão nữa rồi. Cánh rừng này không chỉ bảo vệ cho người dân của xã Đa Lộc, mà còn cả các xã khác như Hưng Lộc, Ngư Lộc và Minh Lộc, vì đây là đoạn đê xung yếu nhất,” ông Chiến chia sẻ.
Nói về ý nghĩa của việc trồng rừng ngập mặn, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa Lê Đức Giang cho biết tỉnh này được xác định là một trong những vùng trọng điểm về thiên tai của cả nước. Do đó, ảnh hưởng do thiên tai là rất lớn.
Tuy vậy, từ năm 2017 - khi tham gia triển khai hợp phần 2 của dự án trên, tỉnh Thanh Hóa đã phục hồi và trồng mới được hơn 337 hécta rừng ngập mặn để tăng khả năng chắn gió bão. Đến nay, những khu rừng cây ngập mặn trồng trên bãi bồi trải dài của xã Đa Lộc đã phát triển xanh tốt, tạo thành “dải đê xanh” vững chãi trước gió bão, sóng biển và bảo vệ các xóm làng bình yên mỗi mùa mưa bão.
“Từ khi có dải rừng này, tác động của sóng biển, bão đã giảm mạnh. Bão cấp 7, cấp 8 - khi gặp rừng ngập mặn sẽ giảm xuống, chỉ còn cấp 4, cấp 5, nhờ đó đã bảo vệ an toàn cho người dân,” đại diện lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa chia sẻ thêm.
Cần nhân rộng thêm rừng ngập mặn ven biển
Bày tỏ vui mừng sau chuyến đi thăm dải rừng ngập mặn đang thẳng mình vươn cao ở ven biển Thanh Hóa, bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam khẳng định rừng ngập mặn là vùng đệm quan trọng của sinh thái biển và cộng đồng dân cư ven biển.
Theo bà Caitlin Wiesen, sau 5 năm triển khai trồng rừng ngập mặn ven biển, UNDP phối hợp với Chính phủ Việt Nam và Quỹ Khí Hậu Xanh (GCF), đã phục hồi được 4.000 hécta rừng ngập mặn ở các vùng ven biển dễ bị tổn thương thuộc các tỉnh Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Quảng Nam, Cà Mau và Nam Định.
Đến nay, các khu vực trồng rừng ngập mặn tại các tỉnh tham gia dự án, đã tạo ra một vùng đệm vững chắn giữa biển và cộng đồng sinh sống ven biển đồng thời giúp người dân có sinh kế ổn định để tham gia bảo vệ môi trường và hệ sinh thái.
Ở góc độ chuyên gia, phó giáo sư, tiến sĩ Lê Anh Tuấn - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) cũng đánh giá rừng ngập mặn là mô hình “cứu cánh,” không chỉ duy trì sinh kế cho người dân địa phương, mà còn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh bão và giảm nhẹ các tác động “xấu” từ thiên tai.
Với ý nghĩa đó, ông Tuấn khuyến nghị mô hình tái sinh, trồng mới rừng ngập mặn ven biển cần được mở rộng thực hiện trên nhiều địa phương khác ở Việt Nam.
Về phía địa phương, ông Lê Đức Giang, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa cho rằng mặc dù địa phương này đã trồng mới cũng như phục hồi được hơn 337 hécta rừng ngập mặn, song việc trồng chỉ là một giai đoạn đầu.
Tiếp theo là việc chăm sóc cây. Do vậy, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa cho rằng cần phải có kinh phí cũng như duy trì bộ máy để chăm sóc cây đến tuổi trưởng thành cũng như duy trì được khả năng chắn sóng, gió bão của rừng ngập mặn.
Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa cũng đề xuất Chính phủ, UNDP, cần có hỗ trợ về các mô hình sinh kế cho người dân để người dân có trách nhiệm cũng như tích cực hơn trong việc tham gia bảo vệ được rừng ngập mặn trên địa bàn./.
Theo số liệu số liệu theo dõi diễn biến tài nguyên rừng của Tổng cục Lâm nghiệp, tính đến năm 2019, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp ven biển trên cả nước là 709.013 hécta trên địa bàn 130 quận, huyện, thị xã thuộc 28 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương. Trong đó, diện tích đất có rừng là 454.337 hécta.
Mặc dù diện tích rừng ven biển chỉ chiếm khoảng 3% tổng diện tích rừng quốc gia (rừng ngập mặn chiếm khoảng 1%), nhưng rừng ven biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn chặn sóng, gió, hạn chế xói lở bờ biển, bảo vệ đê biển, bảo vệ sinh kế của người dân.
Thực hiện Quyết định số 120/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020, cả nước đã thực hiện 140 dự án bảo vệ và phát triển rừng ven biển từ nhiều chương trình khác nhau, qua đó bảo vệ được 295.164 hécta rừng ven biển. Tổng diện tích trồng rừng là 22.390 hécta, trong đó có gần 72% là rừng trồng mới.
TG