Thực tiễn thời gian vừa qua cho thấy một số ngân hàng thương mại cổ phần để xảy ra những tồn tại, rủi ro ảnh hưởng tới an toàn của hệ thống ngân hàng. Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Bùi Quốc Dũng đã trả lời báo giới xung quanh vấn đề này, cũng như khẳng định vai trò, chức năng, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước nhằm góp phần phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn các rủi ro nguy cơ ảnh hưởng tính thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng.
PV: Các tổ chức tài chính ngân hàng là một trong những trọng tâm
trong kế hoạch kiểm toán hằng năm của Kiểm toán Nhà nước. Ông có thể cho
biết một số kết quả kiểm toán nổi bật đối với lĩnh vực này trong những
năm qua, đặc biệt là năm 2023?
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Bùi Quốc Dũng: Năm 2023, toàn ngành Kiểm toán Nhà nước đã hoàn thành 135 nhiệm vụ
kiểm toán, phát hành 248 báo cáo kiểm toán. Qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà
nước đã kiến nghị xử lý 49.941,42 tỷ đồng, trong đó kiến nghị tăng thu
ngân sách Nhà nước 3.841 tỷ đồng, giảm chi ngân sách nhà nước 17.505,33
tỷ đồng; kiến nghị khác 28.595,09 tỷ đồng; đồng thời kiến nghị hủy
bỏ, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới 198 văn bản quy phạm pháp luật và
văn bản quản lý có nội dung không phù hợp với quy định chung của Nhà
nước và thực tiễn (gồm 1 Luật; 8 Nghị định; 5 Quyết định; 27 Thông tư và
157 văn bản khác).
Riêng trong lĩnh vực kiểm toán các tổ chức tài chính ngân hàng, Kiểm
toán Nhà nước đã phát hành 10 báo cáo kiểm toán, kiến nghị xử lý tài
chính 599,4 tỷ đồng, trong đó kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước
380,5 tỷ đồng, giảm chi ngân sách nhà nước và chi đầu tư 2,5 tỷ đồng;
xử lý tài chính khác 216,3 tỷ đồng; đồng thời kiến nghị chấn chỉnh
hoạt động của đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức có liên quan trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng tài chính
công, tài sản công.
Nhìn lại chặng đường 20 năm qua hoạt động kiểm toán trong lĩnh vực
ngân hàng, Kiểm toán Nhà nước đã có nhiều phát hiện kiểm toán có tính
đột phá, đi sâu phát hiện những lỗi hệ thống mang tính chất phức tạp, từ
đó có các kiến nghị có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới hoạt động quản lý nhà
nước tại các đơn vị được kiểm toán.
Kết quả kiểm toán lũy kế giai đoạn từ 2015 đến nay, Kiểm toán Nhà nước
đã kiến nghị xử lý tài chính khoảng 18.107 tỷ đồng, kiến nghị sửa đổi 45
văn bản;đóng góp tích cực trong việc đẩy mạnh công tác phòng chống tham
nhũng. Tính riêng giai đoạn 2012-nay, Kiểm toán Nhà nước đã chuyển hồ
sơ cho cơ quan điều tra đối với 5 vụ việc liên quan đến lĩnh vực kiểm
toán ngân hàng.
PV: Thực tiễn thời gian vừa qua cho thấy một số ngân hàng Thương mại
Cổ phần tồn tại những rủi ro ảnh hưởng tới an toàn của hệ thống ngân
hàng. Kiểm toán Nhà nước với vai trò của mình đã góp phần vào hoạt động
giám sát đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng như thế nào, thưa ông?
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Bùi Quốc Dũng: Điều 4 Luật Kiểm toán Nhà nước 2015 quy định "Đối tượng kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản
công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính
công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán" và Điều 55 Luật Kiểm toán
Nhà nước 2015 quy định về đơn vị được kiểm toán, theo đó, các đơn vị
được kiểm toán phải là các bộ, cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp...
có sử dụng ngân sách hoặc có vốn của Nhà nước. Do đó đối với hệ thống
ngân hàng, chỉ có Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng
Chính sách xã hội, Ngân hàng Hợp tác xã, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và 4 ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước
(Vietcombank, Vietinbank, BIDV và MB) là các đơn vị được kiểm toán theo
quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước 2015. Các ngân hàng thương mại cổ
phần khác không có vốn nhà nước sẽ không thuộc đối tượng kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước.
Mặc dù có những rào cản về cơ sở pháp lý, Kiểm toán Nhà nước vẫn nỗ
lực chủ động tham gia tối đa vào việc giám sát hoạt động của các ngân
hàng thương mại cổ phần trong phạm vi và thẩm quyền của mình. Thông qua
việc kiểm toán Ngân hàng Nhà nước và đặc biệt là kiểm toán tại Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, Kiểm toán
Nhà nước đã chỉ ra và cảnh báo những rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn tới tính
thanh khoản và an toàn của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần đang phải
đối mặt như: thiếu hụt vốn khả dụng dẫn đến vi phạm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc; còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay, phân loại nợ chưa phù
hợp; tỷ trọng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp/tổng dư nợ của một số ngân
hàng cao; còn một số ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu nội
bảng cao vượt ngưỡng; còn trường hợp cổ đông và người có liên quan của
cổ đông sở hữu cổ phần trên 20% vốn điều lệ,… Từ đó khuyến nghị với Ngân
hàng nhà nước trong việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đảm
bảo các ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
và kịp thời phát hiện các yếu tố, xu hướng tác động tiêu cực, rủi ro
gây mất an toàn hoạt động đối với từng tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở ý kiến của Kiểm toán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đã từng
bước khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác thanh tra, giám
soát; ngày càng hoàn thiện về cơ chế chính sách và hành lang pháp lý,
góp phần đảm đảm bảo sự phát tiển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ
chức tín dụng và hệ thống tài chính.
PV: Vụ việc của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) xảy ra
thời gian vừa qua được nhân dân đặc biệt quan tâm, theo dõi, ông cho
biết quan điểm của ông về vai trò, trách nhiệm của hoạt động kiểm toán
đối với vụ việc này?
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Bùi Quốc Dũng: Trước tiên cần phải khẳng định, ngân hàng SCB là ngân hàng thương mại cổ
phần không có vốn nhà nước, do đó theo quy định pháp luật, SCB không
thuộc phạm vi, thẩm quyền và không phải là đối tượng kiểm toán của Kiểm
toán Nhà nước.
Mặc dù không trực tiếp kiểm toán SCB nhưng thông qua hoạt động kiểm
toán tại Ngân hàng nhà nước, Kiểm toán Nhà nước đã chủ động phát hiện và
đưa ra những cảnh báo, khuyến nghị về rủi ro của ngân hàng SCB tại Báo
cáo kiểm toán Ngân hàng nhà nước niên độ 2019, nổi bật là: tăng trưởng
tín dụng vượt quá chỉ tiêu cho phép; thiếu hụt vốn khả dụng dẫn đến vi
phạm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phải vay hỗ trợ thanh khoản và vay đặc biệt
từ Ngân hàng nhà nước với khối lượng lớn; cấp tín dụng cho cổ đông là cá
nhân với số tiền lớn hơn số vốn góp vào chính tổ chức tín dụng; chưa
đáp ứng tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn; chênh
lệch thu-chi âm...; đồng thời kiến nghị Ngân hàng nhà nước rà soát, đánh
giá lại chất lượng tài sản bảo đảm của các khoản cho vay đặc biệt; đánh
giá, xác nhận khả năng thu hồi nợ gốc, lãi của khoản cho vay đặc biệt
SCB, và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định và phù
hợp với thực tiễn.
Có thể nói, với vai trò và chức năng nhiệm vụ trong phạm vi, thẩm
quyền theo quy định, Kiểm toán Nhà nước đã rất chủ động nỗ lực đóng góp
trong việc đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, do các ngân
hàng TMCP không có vốn nhà nước không thuộc đối tượng kiểm toán nên Kiểm
toán Nhà nước không thể kiểm toán, đối chiếu, kiểm tra hồ sơ trực tiếp
với các ngân hàng này mà chỉ có thể tiếp cận hồ sơ, tài liệu thông qua
các báo cáo của Ngân hàng nhà nước dẫn đến các kết quả kiểm tra, đánh
giá, cảnh báo và khuyến nghị chỉ mang tính gián tiếp, hiệu quả còn hạn
chế.
PV: Qua đây, ông có khuyến
nghị gì đối với vai trò của Kiểm toán Nhà nước để tham gia sâu hơn vào
việc giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần không có
vốn nhà nước thay vì chỉ tham gia giám sát thông qua hoạt động kiểm toán
đối với Ngân hàng nhà nước như hiện nay?
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Bùi Quốc Dũng: Như trên đã phân tích, có thể thấy với các quy định pháp luật hiện
nay có nhiều khó khăn cho vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong hoạt động
giám sát đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong việc giám
sát hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần không có vốn nhà
nước. Để nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong thời gian tới,
cần có một số giải pháp sau:
Thứ nhất, sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành theo
hướng có độ mở hơn, tạo điều kiện cho Kiểm toán Nhà nước có thể tham
gia sâu, trực tiếp hơn vào việc giám sát hệ thống ngân hàng, nhất là đối
với nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần.
Thứ hai, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động ngân hàng do Kiểm toán Nhà nước phát hiện; theo dõi đôn đốc kịp
thời, thường xuyên các kết luận và kiến nghị kiểm toán; có chế tài đủ
mạnh đối với trường hợp các đơn vị được kiểm toán không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước.
Thứ ba, tăng cường các cuộc kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề
liên quan đến hoạt động ngân hàng; tập trung kiểm toán đánh giá hiệu
lực, hiệu quả cơ chế, chính sách; chú trọng phát hiện các kẽ hở trong cơ
chế, chính sách, pháp luật, những rào cản ảnh hưởng đến hoạt động ngân
hàng để kiến nghị các cơ quan nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật,
bảo đảm chặt chẽ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương pháp luật.
PV: Trân trọng cảm ơn Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước!./.
ĐỖ BÌNH/TTXVN (thực hiện)