SỰ NHAM HIỂM CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC
Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là
“bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi
ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong
và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển,
Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự
cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được
các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính
trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.
Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch,
phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài
viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên
tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các
trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang
mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.
Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận
điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên
Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước
lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có
giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên
tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
CHÍNH SÁCH NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời,
vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng
hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến
thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có
trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh
tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số
09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong
đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia
trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về "Chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về
biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an
toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng,
an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội
XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển”.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò,
tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền
thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ
Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ
quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các
vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài
của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai
thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự
chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối
đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế
biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.
KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ BẢO VỆ VỮNG CHẮC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO QUỐC GIA BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH
Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần
phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng
vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập
trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công
ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và
hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.
Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán
giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ
quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết
UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và
nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy
sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm
kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả
các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.
Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài
phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta
luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực
thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực
chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu
khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố
ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt
được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện
pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước
có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng;
điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký
kết các hiệp định song phương, đa phương...).
Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề
tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị
với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm
nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài
và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực
đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải
quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982
và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin
chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực
bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm
trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu
nghị, hợp tác và phát triển.
Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên,
không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại
Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống
lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né
tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không
trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất
cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật
pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.
Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện
phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt
thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng
các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc
phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài
tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng
bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển,
bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng,
củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.
Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển,
tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển,
đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện
pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an
ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc
phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để
xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước,
quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là
cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các
thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường,
quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.
Đại tá, ThS. TRẦN ĐỨC TIẾN
Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
(Nguồn: qdnd.vn)