Tại Hội thảo, đáng chú ý là các tham luận: Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc của PGS. TS. Lê Hải Bình, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử của GS. TS. Phùng Hữu Phú, nguyên Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương; Cơ chế tài chính – “điểm nghẽn của điểm nghẽn” trong phát triển khoa học, công nghệ của TS. Nguyễn Quân, Nguyên UVTW Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam của PGS. TS. Vũ Văn Phúc, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Khái niệm, nội hàm kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản; Nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong kỷ nguyên mới của PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương; Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực hiệu quả đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam của PGS. TS. Lê Minh Thông, nguyên Trợ lý Chủ tịch Quốc hội; Kinh tế số trong kỷ nguyên mới của GS. Trần Thọ Đạt, Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế quốc dân; Công tác cán bộ - Động lực quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới của PGS. TS. Vũ Trọng Lâm, Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật; Tăng cường quốc phòng, an ninh đối ngoại trong kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc của GS. TS. Vũ Văn Hiền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.
Phát biểu kết luận Hội thảo khoa học, đồng chí Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương bày tỏ, sẽ tiếp thu tất cả các ý kiến sâu sắc, tâm huyết, giá trị của các chuyên gia, các nhà khoa học.
Toàn cảnh Hội thảo.
Đồng thời, đồng chí Lại Xuân Môn cũng khái quát và nhấn mạnh thêm một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Chúng ta thống nhất nhận thức Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi sự kiện với những đặc trưng quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của một dân tộc, một quốc gia hay cả nhân loại.
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Trong kỷ nguyên mới, mọi người dân Việt Nam đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh.
Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.
Chúng ta thống nhất xác định thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, thời điểm chúng ta hoàn thành xuất sắc công cuộc đổi mới sau 40 năm lao động, sáng tạo bền bỉ và đạt được những thành tựu vĩ đại; thời điểm hội tụ đầy đủ các nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tạo vận hội để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh, vươn lên, vươn nhanh.
Thứ hai, chúng ta nhất trí cao, khẳng định bước vào kỷ nguyên mới là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại
Sau gần 95 năm tiến hành công cuộc giải phóng, xây dựng đất nước; dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra những bước phát triển đột phá kỳ diệu, những kỷ nguyên vẻ vang: kỷ nguyên độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930 – 1975); kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới (1975 – 2025); và bây giờ, chúng ta bước vào kỷ nguyên thứ ba – kỷ nguyên vươn mình của của các dân tộc, khởi đầu bằng sự kiện trọng đại, Đại hội XIV của Đảng. Ba kỷ nguyên đã và sẽ được tạo lập, là sự tiếp nối hợp quy luật của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; kỷ nguyên trước tạo tiền đề cho kỷ nguyên sau; kỷ nguyên sau kế thừa, phát triển thành tựu của kỷ nguyên trước, làm cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng hòa quyện, phát triển không ngừng.
Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập Nước. Sự biến chuyển có tính thời đại, đặc biệt là những thành tựu đột biến của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đem đến thời cơ, thuận lợi mới để Việt Nam có thể nắm bắt, đi trước đón đầu, tăng tốc, phát triển vượt bậc.
Thứ ba, các ý kiến tham luận đề cập đến yêu cầu triển khai toàn diện, đồng bộ các giải pháp để tạo sự phát triển đột phá trên các lĩnh vực, trong đó nhấn mạnh một số trọng tâm.
Một là, về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Bước vào kỷ nguyên mới, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên bứt phá, tăng tốc đang đặt ra cấp thiết, cần thực hiện một số giải pháp chiến lược mà Tổng Bí thư tô Lâm đã định hướng: thống nhất nhận thức, thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, không bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng, bảo đảm nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng.
Hai là, về tăng cường tính Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Các ý kiến tham luận thống nhất cao với nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm: trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” phải tập trung giải quyết.
Các chuyên gia, nhà khoa học thống nhất cho rằng phải đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành, trong phản ứng chính sách kịp thời, không bỏ lỡ thời cơ phát triển. Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Ba là, về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Các ý kiến tham luận đều nhất trí cao với định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm đồng bộ, kết nối, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đột phá về tư duy; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải gắn bó chặt chẽ và phát huy hiệu quả thông qua đổi mới, tinh gọn tổ chức bộ máy.
Cần tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường, tự chịu trách nhiệm của các địa phương.
Bốn là, về cán bộ và công tác cán bộ.
Qua hội thảo, chúng ta thống nhất cao: cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Cần triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, tạo chuyển biến căn bản về xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được, trọng chất lượng hơn số lượng. Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế. Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. Chú trọng rà soát, bồi dưỡng, thử thách, sàng lọc đối với nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, nhất là nhân sự Ban chất hành Trung ương Đảng khóa XIV theo hướng tinh gọn, thực đức, thực tài, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp kiến tạo “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
Năm là, về phát triển kinh tế và cách mạng chuyển đổi số.
Hội thảo của chúng ta đặc biệt quan tâm đến các giải pháp nhằm tạo sự phát triển đột phá về kinh tế, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Các ý kiến đều nhấn mạnh, cần đột phá mạnh mẽ, quyết liệt về thể chế phát triển; tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá về tốc độ tăng trưởng, quy mô, chất lượng, hiệu quả, sự cạnh tranh và năng lực hội nhập của kinh tế đất nước. Ưu tiên phát triển đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Tập trung phát triển lực lượng sản xuất số gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất số; đẩy mạnh công nghệ chiến lược, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển nhanh, bền vững; thúc đẩy cách mạng chuyển đổi số, xem đây chính là chìa khóa, là đòn bẩy đưa đất nước phát triển vượt bậc trong kỷ nguyên mới. Chuyển đổi số là quá trình từng bước xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số, một dạng thức phương thức sản xuất mới tương thích với kinh tế tri thức phát triển đến trình độ cao, thể hiện trình độ, chất lượng vượt trội của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Cần thực hiện cách mạng chuyển đổi số với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất số, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) về chính phủ điện tử, chính phủ số, kinh tế số. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, doanh nghiệp, đất đai, tài nguyên thiên nhiên... tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xã hội số, xây dựng công dân số.
Sáu là, về chống lãng phí.
Chúng ta thống nhất cao với nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm: thực tế hiện nay lãng phí diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển (gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước...). Do vậy, chúng ta thống nhất quan điểm: đẩy mạnh phòng, chống lãng phí là một trọng tâm trong chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; các ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng văn hoá phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”.
Từ những nội dung và những điểm nhấn, điểm mới qua bàn thảo, có thể khẳng định, đây là hội thảo mở đầu, nhưng những kết quả thu được đã đặt cơ sở khoa học để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về kỷ nguyên mới. Những kết quả đạt được tại cuộc hội thảo này cung cấp thêm căn cứ để chúng ta tuyên truyền, lan tỏa sâu rộng định hướng của Trung ương Đảng, của Tổng Bí thư Tô Lâm, tạo niềm tin tưởng, quyết tâm, khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, hướng tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, khởi đầu cho kỷ nguyên mới vẻ vang của dân tộc ta.
Thu Hằng – Minh Thế