Một bộ phận không nhỏ trong cư dân mạng ở Việt Nam cho rằng trong môi
trường ảo như mạng xã hội thì không ai phải chịu trách nhiệm về những
phát ngôn của mình. Hơn nữa, việc xử lý từ phía các cơ quan chức năng
trong nước gặp rào cản pháp lý vì hầu hết các mạng xã hội đều đặt máy
chủ ở nước ngoài.
Luật An ninh mạng được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/2018 và có hiệu lực từ ngày
1/1/2019.
Trong Luật có Chương 1 - Những quy định chung, Điều 8 - Các hành vi bị
nghiêm cấm về an ninh mạng, mục d - Thông tin sai sự thật gây hoang mang
trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế, xã hội, gây khó
khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Tại sao việc tung ra và lan truyền thông tin sai sự thật lại được Luật
An ninh mạng của Việt Nam cũng như các điều luật tương tự của nhiều quốc
gia trên thế giới lưu ý? Đó là do tính chất cũng như mức độ nguy hiểm
mà tin giả có thể gây ra cho an ninh quốc gia, nền kinh tế cũng như an
toàn, trật tự xã hội.
Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) của Mỹ đã dành 11 năm để nghiên cứu
126.000 tin đồn và tin giả trên mạng Twitter và nhận thấy rằng tin bịa
đặt lan truyền nhanh hơn tin thật, được đăng tải nhiều hơn. Lý do là tin
giả “nóng hơn” và chủ đề phổ biến là chính trị, tiếp đó là tin liên
quan đến kinh tế, khủng bố, khoa học, thiên tai...
Kết quả nghiên cứu của MIT đăng trên tạp chí Science (Khoa học) cho biết
tin giả được đăng lại nhiều hơn 70% so với tin thật; tin thật mất thời
gian lâu hơn 6 lần so với tin giả để đến với 1.500 người dùng mạng; tin
thật ít khi có trên 1.000 lượt chia sẻ, trong khi không ít tin giả có
tới 100.000 lượt chia sẻ.
Người dùng mạng bị tính chất giật gân của tin bịa đặt chi phối mà không
quan tâm tới việc chúng có bao nhiêu phần trăm sự thật hay không có một
tí sự thật nào. Do chúng ta đang sống trong thời đại bão hòa thông tin
nên tin tức càng độc, lạ, rùng rợn, bạo lực càng thu hút người dùng
mạng.
Mạng xã hội phát triển như vũ bão với sự kết nối của nhiều trăm triệu
người trên hành tinh có mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực bộc lộ rõ
khi tin giả không được kiểm soát và người “sáng tác,” người lan truyền
tin giả không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Không gian mạng
ngày càng bị các nhóm tội phạm, khủng bố, chống phá, cực đoan lợi dụng
để gây nhiễu loạn xã hội, bôi nhọ các cá nhân, tổ chức, thậm chí là cả
một quốc gia. Ủy ban Phòng, chống tội phạm thành phố Chicago (Mỹ) cho
biết hơn 50 nhóm tội phạm ở đây dùng các mạng xã hội - Facebook,
Instagram, Twitter... để buôn ma túy và thực hiện các hoạt động vi phạm
pháp luật khác.
Thông tin từ Công ty công nghệ Google cho thấy tại Đông Nam Á, trong đó
có Việt Nam, internet phát triển với nhịp độ nhanh nhất Trái Đất với
cộng đồng mạng hơn 400 triệu người. Điều này cũng kéo theo những “góc
khuất” từ mạng xã hội.
Bộ Nghiên cứu, Công nghệ và Giáo dục đại học Indonesia đã kêu gọi các cơ
quan chức năng giám sát nghiêm ngặt các trang mạng xã hội để ngăn chặn
sự phát tán tư tưởng cực đoan trong giới trẻ, đặc biệt là sinh viên.
Điều này diễn ra sau khi cảnh sát vào tháng 6/2018 phát hiện một nhóm
cựu sinh viên dùng mạng xã hội để lên kế hoạch đánh bom Trường Đại học
Aras Mulyadi.
Chính phủ Thái Lan đã dự trù chi hàng triệu USD để triển khai hệ thống
lưu trữ, phân tích dữ liệu mạng xã hội nhằm tránh sự lan truyền tin giả
độc hại trên Internet. Còn tại Malaysia luật chống tin giả áp mức phạt
tù sáu năm cho những đối tượng tung tin giả lên mạng...
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, cơ quan này đã cấp giấy phép
hoạt động cho 436 mạng xã hội có nhiều người dùng, trong đó có
Facebook, Youtube, FB Mesenger, Zalo, Google+… Còn báo cáo năm 2018 của
We are Social cho biết Facebook có trên 55 triệu thành viên tại Việt
Nam, chiếm 57% dân số.
Việt Nam cũng xếp thứ 7/10 quốc gia có số người sử dụng Facebook nhiều
nhất thế giới với nhóm tuổi 25-34 chiếm đa số. Chương trình nghiên cứu internet và xã hội (VPIS) của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
cho thấy các phát ngôn gây thù ghét của người sử dụng mạng xã hội tại
Việt Nam thể hiện ở việc nói xấu, phỉ báng (chiếm 61,7%), vu khống, bịa
đặt (46,6%), kỳ thị dân tộc (37,01%), kỳ thị giới tính (29,03%), kỳ thị
khuyết tật (21,76%), kỳ thị tôn giáo (15,09%)...
Một bộ phận không nhỏ trong cư dân mạng ở Việt Nam cho rằng trong môi
trường ảo như mạng xã hội thì không ai phải chịu trách nhiệm về những
phát ngôn của mình. Hơn nữa, việc xử lý từ phía các cơ quan chức năng
trong nước gặp rào cản pháp lý vì hầu hết các mạng xã hội đều đặt máy
chủ ở nước ngoài.
Trong không ít trường hợp mạng xã hội lấn át các phương tiện truyền
thông chính thống về việc dẫn dắt dư luận xã hội ở những vụ việc nhạy
cảm. Chúng ta đã có bài học đắt giá khi tin giả, tin bóp méo, xuyên tạc
sự thật lan truyền trên mạng xã hội kích động những đối tượng bất mãn,
cực đoan, thiếu hiểu biết nổi loạn, chống phá như trong các vụ lợi dụng
vấn đề môi trường tại Formosa Hà Tĩnh, phản đối Dự thảo Luật về Đơn vị
hành chính-đặc khu kinh tế, Luật An ninh mạng..
Chuyên gia truyền thông Lê Quốc Minh (Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã
Việt Nam) trong các bài thuyết trình trước các nhà báo ở Việt Nam đã
nhiều lần khẳng định đừng coi thường tin giả và phải có ý thức phòng
ngừa từ sớm. Tin giả đã âm thầm xuất hiện ở Việt Nam từ lâu nhưng ít
người để ý. Ngay cả khi tin giả trở thành "khủng hoảng toàn cầu" sau
cuộc bầu cử tổng thống Mỹ thì nhiều người ở trong nước vẫn chưa coi đây
là vấn đề nghiêm trọng.
Nhưng có thể khẳng định rằng tin giả đang thực sự là một mối đe dọa cho
xã hội. Trên thế giới, tin giả tràn lan và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế này. Chúng ta đã chứng kiến có rất nhiều nội dung vô thưởng vô
phạt, thậm chí sai lệch, đã được người dùng mạng xã hội góp phần phát
tán rộng rãi. Trong số những người chia sẻ các thông tin thất thiệt như
vậy trên mạng xã hội có cả những nhân vật có uy tín, có ảnh hưởng, thậm
chí được cho là "thạo tin" hơn nhiều người dùng khác, ví dụ như các nhà
báo.
Theo chuyên gia Lê Quốc Minh, người dùng mạng phải cận trọng, cân nhắc,
kiểm chứng thông tin trước khi “nhập tâm” hay chia sẻ với người khác
những thông tin lan tràn trên mạng, đặc biệt là về những vấn đề nhạy cảm
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, kinh tế đất nước và trật tự xã hội.
Trước khi Luật An ninh mạng có hiệu lực thì chế tài trong Bộ luật Hình
sự 2017 chưa đủ sức răn đe đối với những hành vi vu khống, xúc phạm bôi
nhọ hình ảnh đất nước, uy tín của các tổ chức và cá nhân. Đã xảy ra hiện
tượng nhờn luật.
Theo nhận thức chung trong cộng đồng mạng ở Việt Nam, việc “thông tin
sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân...”, nói theo cách khác là
“tin giả,” không phải hành vi vi phạm pháp luật nặng nề, thậm chí chỉ là
hành động “đùa tếu, mua vui”, cùng lắm chỉ bị “nhắc nhở”.
Tuy nhiên, Luật An ninh mạng quy định rất rõ ràng trong Điều 9 - Xử lý
vi phạm pháp luật về an ninh mạng: “Người nào có hành vi vi phạm quy
định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, Luật An ninh mạng ra đời là quyết định kịp thời và cần thiết để
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội và cũng là bảo vệ chính người
dùng mạng, đồng thời xây dựng một môi trường mạng lành mạnh, an toàn.
Người dùng mạng đã đến lúc phải có ý thức cao đối với hành vi của mình
trên mạng xã hội nếu không muốn gánh chịu trách nhiệm dân sự và thậm chí
là hình sự./.
Trần Quang Vinh (TTXVN)