1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ NGƯỜI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO VÌ DÂN
Hồ Chí Minh là một tấm
gương người lãnh đạo
vì dân mẫu mực, suốt
đời tận trung với nước, tận hiếu
với dân. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, đặc
biệt là những năm tháng đứng ở
đỉnh cao quyền lực (1945-1969),
Hồ Chí Minh luôn đi đầu và đứng
ở vị trí người lãnh đạo cao nhất
cùng nhân dân Việt Nam kiên
trì, bền bỉ đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhận thức rõ vai trò, sức
mạnh của việc tất yếu phải rèn
luyện đạo đức cách mạng; coi đạo
đức là cái gốc, cái căn bản, là nền
tảng của người cách mạng nói
chung, người lãnh đạo nói riêng,
nên trong bất cứ hoàn cảnh nào,
thời điểm nào của sự nghiệp cách
mạng, Người cũng luôn rèn đức,
luyện tài “như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. Đồng thời, thường xuyên
quan tâm, chăm lo, giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên nói chung, cán bộ
lãnh đạo nói riêng, để họ vừa
hồng, vừa chuyên, xứng đáng với
sự tin cậy của nhân dân.
Luôn chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ lãnh đạo có đức, có tài,
xứng đáng với vai trò tiền phong,
Hồ Chí Minh quan niệm người
lãnh đạo là người đứng đầu mỗi
địa phương, cơ quan, đơn vị; có
quyền quyết định mình phải làm
gì, làm như thế nào, đồng thời,
chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước tập thể,
trước cấp trên. Mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ban hành
đều thông qua cán bộ, đảng viên,
nhất là người lãnh đạo để thực
thi trong thực tiễn; đồng thời,
“đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
để hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng”. Vì vậy, để thực hiện tốt vai
trò và để khẳng định tốt vị trí của
mình, người lãnh đạo cần phải
có những phẩm chất và năng lực
cần thiết - những nét đặc trưng
về nhân cách của người cán bộ
lãnh đạo.
Đó chính là người trung
thành với lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, với đường lối, quan điểm
của Đảng; luôn quyết tâm suốt
đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, đặt lợi ích của Đảng
và nhân dân lao động lên trên,
lên trước lợi ích riêng của cá
nhân mình; giữ vững kỷ luật của
Đảng; gương mẫu trong mọi công
việc, xứng đáng với vai trò vừa là
người lãnh đạo vừa là người đày
tớ thật trung thành của nhân
dân. Trong mọi mặt công tác, “ra
sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo
nhân dân để giải phóng nhân
dân và để nâng cao sinh hoạt, văn
hóa, chính trị của nhân dân”(1).
Đồng thời, phải luôn kiên quyết
chống hiện tượng tiêu cực trong
xã hội và trong chính bản thân;
tích cực tham gia các hoạt động
sáng tạo, đóng góp cho sự phát
triển xã hội trên cơ sở tự nguyện,
tự giác, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm trước Tổ quốc
và nhân dân.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh
những yêu cầu về nhân cách của
người lãnh đạo vì dân cần phải có,
đó là: “a) NHÂN là thật thà thương
yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và
đồng bào. Vì thế mà kiên quyết
chống lại những người, những
việc có hại đến Đảng, đến nhân
dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu
cực khổ trước mọi người, hưởng
hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế
mà không ham giàu sang, không
e cực khổ, không sợ oai quyền...
b) NGHĨA là ngay thẳng, không
có tư tâm, không làm việc bậy,
không có việc gì phải giấu Đảng.
Ngoài lợi ích của Đảng, không
có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc
Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to
nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận.
Thấy việc phải thì làm, thấy việc
phải thì nói. Không sợ người
ta phê bình mình, mà phê bình
người khác cũng luôn luôn đúng
đắn. c) TRÍ vì không có việc tư túi
nó làm mù quáng, cho nên đầu
óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu
lý luận. Dễ tìm phương hướng.
Biết xem người. Biết xét việc.
Vì vậy, mà biết làm việc có lợi,
tránh việc có hại cho Đảng, biết
vì Đảng mà cất nhắc người tốt,
đề phòng người gian. d) DŨNG là
dũng cảm, gan góc, gặp việc phải
có gan làm. Thấy khuyết điểm có
gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn,
có gan chịu đựng. Có gan chống
lại những sự vinh hoa, phú quý,
không chính đáng. Nếu cần, thì
có gan hy sinh cả tính mệnh cho
Đảng, cho Tổ quốc, không bao
giờ rụt rè, nhút nhát. đ) LIÊM là
không tham địa vị. Không tham
tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình.
Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một
thứ ham là ham học, ham làm,
ham tiến bộ”(2).
Không chỉ luôn tận tâm với
công việc, trung thực, công bằng,
giản dị, khiêm tốn, quan tâm, sẻ
chia với mọi người xung quanh
và có tinh thần tự phê bình và
phê bình nghiêm túc, trong ứng
xử với cấp dưới, người lãnh đạo
vì dân phải luôn khiêm tốn, biết
tôn trọng mọi người. Trong mọi
mối quan hệ phải đúng mực:
trên không nịnh hót, dưới không
quyền uy, không nịnh trên, nạt
dưới; luôn khách quan, công
bằng đối với mọi cán bộ, và nhân
viên dưới quyền, không ứng xử
theo quan niệm “yêu là tốt, ghét
là xấu”; không thiên vị, không
định kiến, biết nghe lời nói phải,
nghe những ý kiến bị coi là trái
với ý kiến của mình để xử lý,
chọn lọc những thông tin đúng
phục vụ cho công tác lãnh đạo.
Một trong những yêu cầu
không thể thiếu để người lãnh
đạo vì dân hoàn thành trọng
trách mà Tổ quốc và nhân dân
giao phó, chính là năng lực tổ
chức - chuyên môn, bao gồm
khả năng vận dụng mau lẹ kiến
thức, kinh nghiệm vào công tác
thực tế; sẵn sàng lắng nghe, gợi
ý, cổ vũ để những người xung quanh thể hiện quan điểm, suy
nghĩ; qua đó, thu lượm những
điều cần thiết nhằm nâng cao
chất lượng công tác của mình.
Người lãnh đạo “phải quyết định
mọi vấn đề một cách cho đúng”,
“không nên kiêu ngạo, mà nên
hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh
nghiệm của mình cũng chưa đủ
cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy,
ngoài kinh nghiệm của mình,
người lãnh đạo còn phải dùng
kinh nghiệm của đảng viên, của
dân chúng, để thêm cho kinh
nghiệm của mình”(3), để suy xét
sâu sắc, suy nghĩ phân tích tìm
ra bản chất của vấn đề, thấy
được mối quan hệ nguyên nhân
- kết quả và phải biết tác động tới
từng người một cách kiên quyết
nhưng linh hoạt, mềm dẻo để tạo
sự đồng thuận trong cơ quan, địa
phương, đơn vị.
Để đạt hiệu quả công việc tốt,
người lãnh đạo vì dân phải luôn
tìm ra sáng kiến, thực hiện kỹ
năng quản trị hữu hiệu để “tổ
chức sự thi hành cho đúng”, “tổ
chức sự kiểm soát” và “phải có
mối liên hệ chặt chẽ giữa mình
với các tầng lớp người, với dân
chúng. Giữ chặt mối liên hệ với
dân chúng và luôn lắng tai nghe ý
kiến của dân chúng”(4). Đồng thời,
phải độc lập trong suy nghĩ và
phán quyết công việc; biết tự tìm
ra các giải pháp hợp lý, nhưng
cũng biết tiếp thu cái hay của
người khác và nhất là phải luôn
tuân thủ nguyên tắc “thống nhất
giữa lý luận và thực tế”, “lý luận
cốt để áp dụng vào thực tế”, “lý
luận mà không áp dụng vào thực
tế là lý luận suông”...
Người lãnh đạo vì dân khi
làm việc gì cũng phải kiên định
để đạt được mục đích đã đề ra;
phải có tư chất đúng mực, tự chủ
trong suy nghĩ và hành động;
làm việc tận tâm, có sáng kiến,
luôn thống nhất giữa lời nói và
việc làm, luôn lấy chữ tâm làm
đầu; làm việc phải có lề lối, có
quy tắc, có chương trình, kế
hoạch và tổ chức thực hiện tốt
chương trình, kế hoạch đó. Để
phát huy khả năng, sở trường và
hạn chế sở đoản của mỗi người,
người lãnh đạo vì dân phải thể
hiện khả năng “nhìn người đặt
việc” của mình bằng cách xác
định, bố trí mỗi người trong đơn
vị vào công việc phù hợp với khả
năng của bản thân họ. Đồng thời,
người lãnh đạo cần phải xây
dựng uy tín của mình; nhạy cảm
với tình hình, luôn đi đầu, đón
trước sự phát triển của sự việc để
dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm trước những quyết
định của mình. Song, theo Hồ
Chí Minh, “uy tín của người lãnh
đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện
tự phê bình và phê bình, biết học
hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết
điểm, để đưa công việc ngày
càng tiến bộ chứ không phải ở
chỗ giấu giếm khuyết điểm và e
sợ quần chúng phê bình”(5). Do
đó, người lãnh đạo phải thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức, năng lực và khả năng thu
phục nhân tâm, xây dựng lòng
tin với cấp dưới và quần chúng
nhân dân.
2. XÂY DỰNG MẪU HÌNH
NGƯỜI LÃNH ĐẠO THEO
CHỈ DẪN CỦA HỒ CHÍ MINH
Trong thời đại ngày nay, dù ở
trong cương vị nào, tài năng và
đức độ của người lãnh đạo vẫn
luôn là yêu cầu cần thiết, thường
xuyên, lâu dài, đảm bảo cho kết
quả của công tác lãnh đạo. Bởi,
đó chính là uy tín, là sức mạnh
tinh thần được tạo ra bằng nhân
phẩm, tài năng, đức độ từ bản
thân người lãnh đạo. Phẩm chất
và năng lực của người lãnh đạo,
sự mẫu mực, nêu gương cũng
như thái độ kiên quyết của họ
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong thực hiện nhiệm vụ chính
trị và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống ở mỗi tổ chức, cơ
quan, đơn vị. Sự gương mẫu của
người lãnh đạo là minh chứng
sinh động, tạo ra động lực để
thúc đẩy niềm tin của nhân
dân. Vì vậy, muốn nhân dân tin
thì người lãnh đạo phải gương
mẫu, tận tâm, tận lực vì dân,
nghiêm túc, dân chủ, tôn trọng
con người, tận tụy vì công việc
trên tinh thần “việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có
hại đến dân phải hết sức tránh”.
Đáp ứng yêu cầu của tình
hình và nhiệm vụ, người lãnh
đạo vì dân cần phải nỗ lực phấn
đấu và rèn luyện để làm giàu tri
thức, nâng cao trình độ, năng
lực quản lý của bản thân thông
qua sách vở và thực tiễn; phải
luôn nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân theo Chỉ thị 05-CT/TW của
Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” theo
chương trình toàn khóa, nhất là
chuyên đề năm 2018 “Xây dựng
phong cách, tác phong công tác
của người đứng đầu, của cán bộ,
đảng viên trong học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”.
Từ chỉ dẫn của Hồ Chí Minh,
soi rọi theo Chỉ thị 05-CT/TW,
có thể thấy, người lãnh đạo vì
dân trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh
những yêu cầu cần và đủ như đã
nêu trên, còn cần phải có khả
năng gây ảnh hưởng đến người khác: thuyết phục người khác
nghe theo sự chỉ dẫn của mình.
Điều này đòi hỏi sự khéo léo, tài
ngoại giao và một số kỹ năng
làm việc với mọi người. Cùng đó,
là khả năng khơi dậy sự tự tin:
bằng cách làm gương và đặt ra
chuẩn mực cao mà người khác
hướng tới, thể hiện tính kiên
định của mình khi trong tập thể
có sự khác biệt về chính kiến và
quan điểm. Tính đáng tin cậy và
lòng chính trực: không nhượng
bộ trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
nhằm giữ vững các chuẩn mực
đã đề ra của người lãnh đạo, tạo
động lực cho cấp dưới tin tưởng
và ủng hộ.
Đối với người lãnh đạo, một
quá trình nỗ lực phấn đấu và
thành công, thể hiện qua bề dày
thành tích mà họ đã đạt được,
sẽ góp phần tạo sự tôn trọng ở
cấp dưới, đồng thời, cũng mang
lại sự tự tin cho bản thân người
lãnh đạo. Trong mọi mặt công tác,
người lãnh đạo luôn công bằng:
luôn vô tư, không thiên vị một
phía nào; biết lắng nghe hơn là
chỉ biết áp đặt và lấn lướt trong
mọi cuộc thảo luận; nhất quán:
không bẻ cong các giá trị hay
quy tắc để chiều theo hoàn cảnh;
quan tâm chân thành đến người
khác: yêu quý, hòa đồng với mọi
người; bộc lộ sự tin tưởng vào
tập thể luôn luôn sẵn sàng trao
lại quyền lực, quyền hạn và trách
nhiệm cho tập thể. Đồng thời,
người lãnh đạo phải luôn đánh
giá công trạng đúng người: thay
vì cho rằng tất cả công trạng đều
thuộc về người lãnh đạo; sát cánh
bên tập thể: không chối bỏ trách
nhiệm khi gặp khó khăn, khi
phạm phải những sai lầm, khuyết
điểm; cung cấp thông tin kịp thời
cho tập thể: không tỏ ra “bí mật”
để chứng tỏ mình quan trọng, sẽ
nhất định quỵ tụ được mọi người.
Ở trong nước những năm gần
đây, nhất là trong nhiệm kỳ Đại
hội XII của Đảng, đã và đang xuất
hiện những gương mặt mới ở đủ
mọi lứa tuổi; trong đó, có những
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp
hội tụ đủ những phẩm chất vừa
nêu. Đó là cơ sở để củng cố niềm
tin vào một loại sức mạnh mềm
để tạo lập sự trưởng thành, chấn
hưng và phát triển bền vững của
dân tộc!
Với những khía cạnh nêu
trên, có thể nói, việc đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong toàn khóa nói chung,
theo chuyên đề năm 2018 nói
riêng không chỉ đơn thuần là
một cuộc vận động, không chỉ là
một đợt sinh hoạt chính trị, mà
thực chất, đó là một hoạt động và
chương trình tổng thể chiến lược
mang hàm nghĩa văn hóa sâu sắc
để xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
làm cho Đảng luôn trong sạch,
vững mạnh như Hồ Chí Minh
mong muốn.
Để đạt được mục tiêu này, cần
áp dụng các biện pháp đồng bộ cả
về phía tổ chức và phía mỗi cán
bộ, đảng viên, cả về trước mắt và
lâu dài, chủ yếu là:
Một là, nâng cao nhận thức,
tăng cường giáo dục những giá
trị cốt lõi của tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về
nhân cách văn hóa người lãnh
đạo để hiểu thấu, biết sâu và
thực hành nghiêm. Hai là, xây
dựng chiến lược tổng thể tạo
nguồn, lựa chọn để xây dựng và
thường xuyên bổ sung đội ngũ
cán bộ lãnh đạo theo các chuẩn
mực khuôn mẫu nhân cách mà
Hồ Chí Minh đã gợi mở trong
thời kỳ xây dựng, chấn hưng
đất nước. Ba là, huấn luyện, đào
tạo, bồi dưỡng một cách bài bản
đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã được
tạo nguồn, thông qua trường
lớp chính quy trong nước và
nước ngoài. Bốn là, xây dựng
chương trình, kế hoạch hành
động với các lộ trình, bước đi
cụ thể phấn đấu đạt được các
chuẩn mực lãnh đạo gắn với vị
trí công tác mà cá nhân đang
đảm nhận. Năm là, giám sát chặt
chẽ, thường xuyên tổng kết thực
tiễn để điều chỉnh các chuẩn
mực trong khuôn mẫu nhân
cách người cán bộ lãnh đạo từ
nhu cầu dân tộc và học hỏi kinh
nghiệm quốc tế…
(1), (2), (3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011,
t.5, tr.290, 291-292, 325, 326.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.13, tr.421.
PGS.TS. Phạm Ngọc Anh