(TCTG)- Bảo hiểm y tế ở nước ta được triển khai từ năm 1992. Sau 10 năm hoạt động, năm 2003, Bảo hiểm y tế được sáp nhập vào Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Trong 17 năm qua, nhiều văn bản pháp luật về bảo hiểm y tế được ban hành, đặc biệt là Luật Bảo hiểm y tế đã tạo cơ sở pháp lý để triển khai chính sách bảo hiểm y tế, góp phần tích cực vào việc bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Những kết quả đạt được
- Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế ngày càng mở rộng, đặc biệt là các đối tượng: người nghèo, người có công với cách mạng, cán bộ xã, phường, thị trấn, thân nhân của liệt sĩ... Năm 2005, cả nước có trên 23,2 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tăng hơn 6 lần so với năm 1993 (năm đầu tiên thực hiện bảo hiểm y tế); năm 2008, có khoảng 39,2 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, gấp 1,7 lần so với năm 2005.
Bảo hiểm y tế tự nguyện đã được mở rộng đến nông dân và hội viên các đoàn thể quần chúng. Chính phủ quy định mở rộng cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ở cả khu vực công lập và tư nhân; đặc biệt, việc tổ chức khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại tuyến xã đã tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế được lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh ban đầu, phù hợp với chủ trương xã hội hoá y tế và giải quyết một phần tình trạng quá tải tại các cơ sở y tế tuyến trung ương. Đến nay, cả nước có trên 1.900 cơ sở khám chữa bệnh (công lập và ngoài công lập) và khoảng 80% số trạm y tế xã, phường có hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
- Số người được khám chữa bệnh, tần suất khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tăng nhanh qua các năm. Năm 2005, có hơn 40 triệu dượt người được khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; năm 2008 đã có 80 triệu dượt người, tăng 200% so với năm 2005.
- Tổng thu của Quỹ Bảo hiểm y tế năm 2008 khoảng 9.415 tỉ đồng, tăng gần 3 nghìn tỉ đồng so với năm 2007; tăng thu từ bảo hiểm y tế tự nguyện chiếm khoảng 18%, trong khi số người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện chiếm 27% tổng số người tham gia bảo hiểm y tế. Quỹ Bảo hiểm y tế bắt đầu bội chi từ năm 2005 với mức bội chi là 138 tỉ đồng; năm 2006 bội chi 1.200 tỉ đồng; năm 2007 bội chi 1.840 tỉ đồng và năm 2008 bội chi khoảng 1.450 tỉ đồng.
Những hạn chế, yếu kém
- Các chính sách, văn bản pháp luật về bảo hiểm y tế còn chưa đồng bộ và nhất quán, làm nảy sinh một số vướng mắc trong thực hiện, ảnh hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế; mô hình tổ chức y tế tuyến huyện thay đổi đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại các trạm y tế.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về chính sách bảo hiểm y tế chưa được coi trọng; nhận thức về trách nhiệm, lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện công tác bảo hiểm y tế của một số cấp uỷ, chính quyền cũng như nhận thức của nhân dân về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm y tế còn hạn chế.
- Số người tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc còn thấp, mức độ bao phủ bảo hiểm y tế trong dân chưa đạt mục tiêu đề ra. Việc tham gia bảo hiểm y tế của khu vực doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng còn thấp. Tình trạng không tham gia hoặc nợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế kéo dài của các doanh nghiệp không chỉ tác động đến nguồn thu của Quỹ Bảo hiểm y tế mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, đây là một trong những nguyên nhân phát sinh đình công, lãn công, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
- Chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện gặp nhiều khó khăn trơng việc mở rộng đối tượng tham gia, nhất là với những người khoẻ mạnh; mức đóng thấp, mất cân đối quỹ chủ yếu ở nhóm đối tượng bảo hiểm y tế tự nguyện. Mức đóng bảo hiểm y tế bình quân cả 2 khu vực bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện có sự chênh lệch lớn và chưa đáp ứng được chi phí thực tế.
- Quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế đã từng bước được bảo đảm nhưng vẫn chưa giải quyết được mối quan hệ giữa quyền lợi và mức đóng bảo hiểm y tế khi mở rộng phạm vi bao phủ, nhất là với các nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ và nhóm tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, ảnh hưởng đến sự an toàn của Quỹ Bảo hiểm y tế.
- Điều kiện phục vụ của hệ thống khám chữa bệnh, đặc biệt ở tuyến cơ sở còn nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất và trình độ đội ngũ cán bộ y tế; quy trình, thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế vẫn chưa thuận tiện, gây phiền hà cho người bệnh. Hiện tượng lạm dụng thuốc, trang thiết bị y tế đang có xu hướng ngày một tăng. Sự yếu kém trong cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thể hiện tính ưu việt và hấp dẫn của bảo hiểm y tế.
- Phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế dễ gây lạm dụng dịch vụ, thuốc, tăng chi phí hành chính cho cả phía bệnh viện và cơ quan bảo hiểm y tế. Việc thanh quyết toán chi phí giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với các cơ sở y tế chưa kịp thời./.