AN NINH NGUỒN NƯỚC LÀ AN NINH ĐẶC BIỆT
Với quan điểm “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước”, Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước. Mới đây, Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận 36-KL/TW ngày 23/6/2022 về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứ nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo ước tính của Liên hợp quốc, năm 2020, hơn 2 tỷ người trên thế giới sinh sống trong điều kiện không đủ nước uống trong nhà, 771 triệu người phải di chuyển quãng đường ít nhất 30 phút xa nhà để có nguồn nước sạch và hơn 100 triệu người đang sử dụng nguồn nước uống trực tiếp chưa qua xử lý, nước chất lượng không bảo đảm. Báo cáo mới nhất của Tổ chức Lương – Nông Liên hợp quốc (FAO) cũng cho biết có khoảng 2,3 tỷ người hiện đang sống ở các quốc gia nguy cơ thiếu nước thường trực, với hơn 733 triệu người (chiếm 10% dân số thế giới) sống ở các nước có nguy cơ ở mức cao và đặc biệt cao. Dân số thế giới tăng, nhu cầu sử dụng nước nhiều hơn dẫn tới tình trạng khan hiếm nước và các xung đột vì tranh chấp nguồn nước… Vấn đề an ninh nguồn nước không chỉ là thách thức của riêng Việt Nam mà là câu chuyện thế giới đã, đang và sẽ phải đối mặt.
An ninh nguồn nước là loại an ninh đặc biệt tác động đến sự phát triển bền vững của đất nước. Tiềm năng tài nguyên nước của Việt Nam khoảng 830-840 tỷ m3, tuy nhiên an ninh nguồn nước nước ta đứng trước nguy cơ mất đảm bảo và nguy cơ này sẽ ngày càng gia tăng nếu không kịp thời có những đánh giá và các biện pháp bảo đảm an ninh nguồn nước.
Trong bối cảnh thực tế đặt ra gay gắt đó, Bộ Chính trị kịp thời ban hành Kết luận 36-KL/TW, khẳng định mối quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước.
Bộ Chính trị đánh giá công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước hiện nay còn nhiều hạn chế. Cụ thể là, công tác quản trị nguồn nước còn yếu, chưa hiệu quả; ý thức, trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương và người dân trong việc quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao; ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn thiếu, chưa đồng bộ. Nhiều công trình thuỷ lợi xuống cấp; rủi ro, mất an toàn đập, hồ chứa nước có xu hướng gia tăng. Việc phát triển công nghiệp, đô thị chưa gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước, làm suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước, thậm chí gây mất an ninh nguồn nước. Hợp tác quốc tế về bảo đảm an ninh nguồn nước hiệu quả chưa cao...
NHẬN THỨC CHƯA ĐẦY ĐỦ
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém chịu tác động bởi những yếu tố khách quan và chủ quan. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp, khó lường, các khó khăn đặt ra cho bảo vệ nguồn nước ngày càng lớn. Việt Nam lại trong hoàn cảnh phụ thuộc nhiều vào nguồn nước từ các quốc gia thượng nguồn. Trong khi đó, công tác quản lý mặc dù có nhiều cố gắng nhưng còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất; thể chế, chính sách chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; chưa chú trọng đến quản trị nguồn nước, kinh tế tài nguyên nước; nguồn lực đầu tư cho bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước chủ yếu là ngân sách nhà nước, huy động nguồn lực xã hội còn hạn chế; chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa nghiêm...
Đáng nói đầu tiên trong những nguyên nhân chủ quan được chỉ ra là nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước, bảo vệ, sử dụng nước chưa đầy đủ. Do đó, khi đề ra 9 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu, Bộ Chính trị đặt lên hàng đầu là yêu cầu nâng cao nhận thức về tầm quan trọng bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới.
Mục tiêu tổng quát đến 2005, 2030, 2045 được Bộ Chính trị xác định là nhằm bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh tỏng mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý. Chủ động tích trữ, điều hòa nguồn nước, khai thác, sử dụng hiệu quả đi đôi với với bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; ứng phó hiệu quả với các thảm họa, thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước.
Mục tiêu cụ thể chia thành 3 giai đoạn:
- Đến năm 2025: Hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến nước; 95% hộ gia đình ở thành thị và 60% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nước cho sản xuất, đặc biệt là các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, miền núi phía Bắc; cơ bản sửa chữa, nâng cấp bảo đảm an toàn các đập, hồ chứa nước bị hư hỏng, xuống cấp, chưa đủ khả năng chống lũ theo thiết kế.
- Đến năm 2030: Cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; 100% hộ gia đình ở thành thị và 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn. Giải quyết căn bản nước sinh hoạt cho các đảo có đông dân cư; hoàn thiện đồng bộ hệ thống công trình điều tiết nước mặn, nước ngọt, tích trữ nước trên các lưu vực sông lớn; hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ; bước đầu khắc phục tình trạng suy thoái, ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng tại một số lưu vực sông, hệ thống công trình thuỷ lợi lớn; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng và vận hành hệ thống theo dõi, đánh giá, giám sát an ninh nguồn nước quốc gia theo phương thức quản trị nguồn nước của quốc tế.
- Đến năm 2045: Chủ động được nguồn nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; dự báo, cảnh báo dài hạn để xử lý ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu; kiểm soát và khắc phục tình trạng suy thoái, ô nhiễm nguồn nước tại các lưu vực sông, hệ thống công trình thuỷ lợi; hoàn thiện chính sách về nước đồng bộ, thống nhất liên ngành, liên vùng, bảo đảm an ninh nguồn nước.
Để thực hiện các mục tiêu tổng quát và cụ thể đó, 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được Bộ Chính trị yêu cầu là: (1) Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới; 2) Hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; 3) Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch thuỷ lợi, tài nguyên nước và điều tra cơ bản, đánh giá trữ lượng nguồn nước; 4) Chủ động tích trữ, điều hoà, phân phối nguồn nước, đáp ứng yêu cầu sử dụng nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; 5) Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; 6) Phòng, chống, giảm thiểu tác động bất lợi do thiên tai liên quan đến nước và biến đổi khí hậu; 7) Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước; 8) Tăng cường bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn sinh thủy, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; 9) Tăng cường bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn sinh thuỷ, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo đảm an ninh nguồn nước.
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG
Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cần được đẩy cao hơn. Thực hiện Kết luận 36, đối với nhóm nhiệm vụ giải pháp thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước trong tình hình mới, yêu cầu đặt ra là công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu cần được tăng cường để cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp nhận thức đúng, đầy đủ về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài, liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước.
Trên cơ sở đó xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các cấp, các ngành và người dân trong thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát huy vai trò giám sát của người dân, cộng đồng; vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp trong tuyên truyền, vận động nhân dân quản lý, chủ động tích trữ, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước cũng đã triển khai các hoạt động truyền thông bám sát vào thực tiễn, nhu cầu của cộng đồng, một số hoạt động truyền thông tiêu biểu như: điều tra, thu thập thông tin để đánh giá nhu cầu, nhận thức của cán bộ, người dân về bảo vệ nguồn nước, phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn; tổ chức học tập kinh nghiệm nước ngoài về truyền thông bảo vệ nguồn nước và phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn; Biên soạn và in ấn các tài liệu, sách, tờ rơi, phim… về bảo vệ nguồn nước và phóng chống hạn hán, xâm nhập; tăng cường tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm thích ứng với điều kiện thiếu nước; các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng bề bảo vệ nguồn nước; tổ chức các diễn đàn, hội thảo tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị xã hội; các cơ quan thông tấn, báo chí, phóng viên…. về bảo vệ tài nguyên nước và phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn; Xây dựng và triển khai các chương trình giáo dục bảo vệ tài nguyên nước: Xây dựng modun hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo vệ nguồn nước cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở, tổ chức các chương trình giáo dục, lớp học thí điểm trên cả nước; tăng cường vận động, phối hợp với các KOLs để truyền tải các thông điệp, hoạt động truyền thông về bảo vệ, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên nước tới cộng đồng; truyền tải thông điệp qua các video ngắn, poster; các buổi nói chuyện, chia sẻ trực tiếp tại các sự kiện, các trường học, cơ sở giáo dục, các địa điểm công cộng…; phối hợp đăng tải các thông điệp, ấn phẩm trên các kênh truyền thông, mạng xã hội...
Thời gian tới, công tác tuyên truyền, giáo dục cần bám sát các tiến trình và sản phẩm của quá trình hoàn thiện các văn bản pháp luật, chính sách quản lý tài nguyên nước; hoạt động cung cấp và tiêu thụ nước sạch, các quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng nước sạch cấp cho mục đích sinh hoạt. Nâng cao nhận thức về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sở hữu công trình tài nguyên nước hoặc thực hiện các dịch vụ về nước, trách nhiệm, thẩm quyền quản lý về tài nguyên nước của các Bộ có quản lý ngành sử dụng tài nguyên nước và chính quyền địa phương các cấp. Phân định rõ giữa quản lý nguồn nước và quản lý hoạt động khai thác, sử dụng trong các lưu vực sông. Đồng thời với việc các cơ quan quản lý xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước cần có cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu về quản lý tài nguyên nước giữa Trung ương và địa phương. Đồng thời tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các biện pháp sự dụng nước tiết kiệm hiệu quả đến tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư.
Tại các diễn đàn quốc tế, các chuyên gia cũng đều nhấn mạnh, bên cạnh các biện pháp chính sách trọng tâm và các thể chế hoạt động hiệu quả hơn đóng vai trò căn cơ để bảo vệ an ninh nguồn nước, vai trò tham gia của toàn dân để tiến tới một sự chuyển đổi ý nghĩa trong khai thác và sử dụng nước rất quan trọng. Sự hưởng ứng và cùng hành động của người dân cùng các chính sách, sáng kiến, phản biện xã hội sẽ giúp tăng hiệu quả và năng suất, giảm rủi ro, tạo việc làm và tăng thu nhập cho chính người dân. Ở góc độ cá nhân, các chuyên gia cho rằng mỗi người có ý thức tự giác tiết kiệm nước sử dụng, tăng cường bảo vệ môi trường,… sẽ tạo nên sức mạnh cộng đồng to lớn./.
Cao Nguyên