(TG) - Ngày Hội quốc phòng toàn dân là dịp để phát huy truyền thống yêu nước,
biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Với Ngày Hội quốc phòng toàn dân, mọi người dân
Việt Nam ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất,
truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của quân đội và Nhân
dân ta.
Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 25 năm Ngày
Hội quốc phòng toàn dân, Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài
viết của Đại tá, tiến sỹ Trần Ngọc Tuệ, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn
quân sự - Bộ Quốc phòng với nhan đề: "Ngày Hội quốc phòng toàn dân - Ngày hội của khát vọng "Không có gì quý hơn độc lập tự do.'"
Cách đây 25 năm, theo nguyện vọng của nhân dân cả nước, ngày 17/10/1989,
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TƯ quyết
định lấy ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12) đồng thời là
Ngày Hội quốc phòng toàn dân. Từ đây, ngày 22/12 thực sự trở thành ngày
hội của truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước; ngày hội tôn vinh và
nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một nét độc đáo của văn hóa
giữ nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Ngày Hội quốc phòng toàn dân là dịp để phát huy truyền thống yêu nước,
biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Với Ngày Hội quốc phòng toàn dân, mọi người dân
Việt Nam ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất,
truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của quân đội và Nhân
dân ta.
Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí quật cường, ý thức tự lực, tự cường vượt qua
mọi khó khăn thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị, đội quân
chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ mới.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tư duy của Đảng về quốc phòng-an
ninh có sự phát triển mới. Việc lấy ngày 22/12 hàng năm là Ngày Hội quốc
phòng toàn dân đã thể hiện sự trung thành và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam; truyền thống
dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới
của thời đại và đất nước.
Nhìn lại lịch sử, ngay sau khi đất nước giành được độc lập, ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở đầu một
kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (Hồ
Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG. H. 2000, t.4, tr.557.)
Đây chính là mục tiêu xuyên suốt thể hiện tính chất chính nghĩa, tự vệ
của nền quốc phòng toàn dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Mục
tiêu ấy đã được nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ và cụ thể trong từng
thời kỳ cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mục tiêu của quốc phòng toàn
dân là: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh. Toàn tập, Nxb CTQG. H. 2000,
t.5, tr.354.)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mục tiêu của quốc phòng toàn
dân là đấu tranh cho độc lập và thống nhất Tổ quốc với ý chí “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do.”
Trong sự nghiệp đất nước đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mục
tiêu của nền quốc phòng toàn dân là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường
và ngày càng hiện đại, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng xã hội Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày Hội quốc phòng toàn dân chính là sự kế thừa và phát huy truyền
thống đoàn kết, yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng “cử quốc nghênh địch,” toàn dân đánh giặc của tổ tiên ta
được dựa trên nền tảng vững chắc là tinh thần yêu nước, ý thức và lòng
tự hào dân tộc của toàn thể người dân đất Việt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6,
Nxb CTQG. H. 2000, tr.171.)
Người khẳng định: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực
lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6,
Nxb CTQG. H. 2000, tr. 281).
Đó là phát huy cao độ yếu tố chính trị-tinh thần, truyền thống đoàn kết,
yêu nước thương nòi, sống hòa thuận, thủy chung, lao động cần cù, sáng
tạo, đấu tranh anh dũng, kiên cường bất khuất; tranh thời, tạo thế, phát
huy tài thao lược và nghệ thuật quân sự Việt Nam; sức mạnh của lực
lượng vũ trang nhân dân, của quân đội tinh nhuệ “cốt tinh, không cốt
đông” làm nòng cốt của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Ngày Hội quốc phòng toàn dân là sự khẳng định mục tiêu, tính chất hòa
bình, tự vệ, chính nghĩa của quốc phòng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, nhưng hoà bình
không thể tách rời độc lập dân tộc. Nhân dân Việt Nam biết rằng muốn có
hòa bình thật sự thì phải có độc lập thật sự; và đấu tranh cho độc lập
dân tộc, tức là đấu tranh bảo vệ hòa bình” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, H, 2000, tập 11, tr 500.)
Mục tiêu ấy xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội và truyền thống
hòa hiếu của dân tộc Việt Nam; một quốc gia độc lập, có chủ quyền, luôn
mong muốn chung sống hoà bình, hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế
giới, để tập trung cho công cuộc phát triển đất nước vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Song Việt Nam cũng luôn tăng cường
sức mạnh quốc phòng đủ để bảo vệ Tổ quốc.
Ngày Hội quốc phòng toàn dân tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng,
quốc phòng Việt Nam là quốc phòng toàn dân, mang tính chất toàn dân. Mục
tiêu của quốc phòng là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc của nhân dân. Vì vậy, cũng như sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, công cuộc xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó phải phát huy sức mạnh, trí tuệ của
nhân dân để củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Quốc phòng toàn dân là một nền quốc phòng vì Nhân dân và do Nhân dân xây
dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Có huy động
được toàn dân tham gia thì các chủ trương, đường lối, chính sách quốc
phòng của Đảng, Nhà nước mới đi vào cuộc sống; nền quốc phòng toàn dân
mới được củng cố vững chắc.
Tính chất toàn dân vừa phản ánh vai trò của Nhân dân đối với sự tồn vong
của đất nước, vừa phản ánh truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc trong
lịch sử dựng nước và giữ nước. Các công dân, lực lượng trong xã hội có
nghĩa vụ, quyền lợi xây dựng nền quốc phòng và tích cực tham gia đấu
tranh trên lĩnh vực quốc phòng. Mỗi công dân Việt Nam vừa là người lao
động giỏi trong xây dựng đất nước, vừa là người chiến sỹ kiên cường bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Quốc phòng toàn dân chỉ có thể được xây dựng và phát huy sức mạnh khi
khơi dậy, phát huy tiềm năng, trí tuệ, sức mạnh tinh thần, vật chất của
nhân dân; sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc.
Vì lẽ đó, Đảng chỉ rõ: phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần
yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi
ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí
công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà
bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm
xuyên quốc gia...(Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG. H. 2011, tr 234-235.)
Ngày Hội quốc phòng toàn dân còn khẳng định sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trong chủ nghĩa xã hội là sức mạnh tổng hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, cách mạng phải dựa vào sức mình là chính, phải “đem sức ta mà giải phóng cho ta.”
Sức mạnh bên trong của đất nước chính là tiền đề, điều kiện để có thể
tranh thủ sự giúp đỡ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài,
tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Thực tiễn lịch sử
cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự giúp đỡ quốc tế dù có to lớn đến
đâu, nếu sự nỗ lực của cách mạng trong nước không cao thì cũng không
mang lại hiệu quả.
Chính vì vậy, phải coi sức mạnh bên trong là nhân tố giữ vai trò quyết
định sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân. Đảng chỉ rõ: “Sức mạnh bên
trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội
ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng
cốt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG. H. 2006, tr.119.)
Sức mạnh quốc phòng Việt Nam hiện nay là sức mạnh của sự kế thừa phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc trong kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Những truyền thống quý báu được hun đúc trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc như: lòng yêu nước thương nòi; tinh thần
lao động cần cù; ý chí đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường bất khuất;
sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn; tài thao lược và trí thông minh sáng tạo;
tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, nghĩa thuỷ chung... được Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta kế thừa, phát huy; là nền tảng tinh
thần của sức mạnh quốc phòng toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với việc Đảng ta lấy ngày 22/12 hàng năm là Ngày Hội quốc phòng toàn dân
đã phản ánh quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền quốc phòng toàn
dân trong thời kỳ đất nước đổi mới. Đó là xây dựng nền quốc phòng toàn
dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, nâng
cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang.
Nền quốc phòng ấy là kết tinh sức mạnh của cả nước, cả dân tộc, cả chế
độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng và phát triển; là sức mạnh của
toàn dân, toàn quân một ý chí dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm bảo vệ
Tổ quốc. Sức mạnh quốc phòng là sức mạnh tổng hợp của lực lượng quốc
phòng, tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng, trong đó lực lượng vũ
trang làm nòng cốt.
Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về kỷ niệm ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - Ngày Hội quốc phòng toàn dân, các
cấp, các ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị, đoàn thể chính
trị-xã hội và lực lượng vũ trang đã phối hợp triển khai thực hiện với
những nội dung, hình thức tổ chức phong phú, sáng tạo như: Tuyên truyền
sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất cao
đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ;" giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; cổ
vũ, động viên mỗi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc;
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trong tình hình mới. Tổ
chức mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân-dân; ngày hội văn hóa
quân-dân, giáo dục truyền thống; tổ chức gặp mặt, thăm hỏi động viên các
cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, gia đình liệt sỹ, thương,
bệnh binh; thăm hỏi các đơn vị quân đội nhất là ở nơi biên giới và hải
đảo; xây dựng nhà tình nghĩa tặng các đối tượng chính sách; tham gia xây
dựng, tu sửa, tôn tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm,
đền thờ liệt sỹ...
Các cấp, ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương, đoàn thể nhân dân đã
gắn kết chặt chẽ việc xây dựng những chương trình, dự án phát triển kinh
tế-xã hội ở địa phương với nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
giáo dục quốc phòng-an ninh trong toàn dân; động viên các tầng lớp nhân
dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phòng, chống “diễn biến hòa
bình;” phòng, chống “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa;” vận động nhân dân
tích cực tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng; xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; xây dựng cơ sở chính trị
vững mạnh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch;
vận động thanh niên hăng hái lên đường bảo vệ Tổ quốc...
Ngày Hội quốc phòng toàn dân đã thực sự trở thành ngày hội lớn của toàn
dân tộc góp phần thiết thực nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của
toàn dân đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ
Tổ quốc.
Lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được
tăng cường, góp phần quan trọng vào giữ vững môi trường hòa bình và an
ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế. Đây là thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng
toàn dân và sau gần 30 năm đổi mới đất nước.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) chỉ rõ, sau 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX), chúng ta đã thu được kết quả quan trọng,
đó là: giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ vững chắc
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo
vệ Đảng, Nhà nước; bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiềm lực
kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng-an
ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên một
bước.
Hiện nay độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục đứng
trước những đe dọa, thách thức, do những diễn biến phức tạp, khó lường
của tình hình thế giới và khu vực. Vì vậy, cần quán triệt sâu sắc quan
điểm của Đảng: Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
nhân dân ta luôn nêu cao cảnh giác, không một chút lơi lỏng nhiệm vụ
củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Để ngày Hội quốc phòng toàn dân thực
sự là ngày hội biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; quyết tâm
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo, chặt chẽ với những nội dung,
hình thức biện pháp linh hoạt, phong phú, sáng tạo.
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị
đối với việc chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn các hoạt động kỷ niệm Ngày Hội
quốc phòng toàn dân.
Thực tiễn đã cho thấy, hệ thống chính trị đất nước có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn các hoạt động kỷ niệm Ngày
Hội quốc phòng toàn dân.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải tăng
cường lãnh đạo chặt chẽ những hoạt động kỷ niệm Ngày Hội quốc phòng toàn
dân bằng cách chăm lo quan tâm đến lợi ích chính đáng, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân theo phương châm “việc gì có lợi cho dân
thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh” như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Đảng ta khẳng định: Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân. Đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng phải xuất phát từ lợi
ích, nguyện vọng và khả năng của Nhân dân thì mới huy động được toàn dân
tham gia củng cố quốc phòng.
Cấp ủy, chính quyền các cấp cần kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
bằng được những chính sách phát triển kinh tế - xã hội để từng bước giảm
bớt phân hóa giàu-nghèo; chênh lệch giữa các vùng, miền. Thường xuyên
quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo; vùng biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ; huy động
các nguồn lực của đất nước, nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước
đầu tư giúp đỡ xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết những khó khăn,
bức xúc đang đặt ra ở các vùng đặc biệt khó khăn. Phải kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, năng lực yếu kém
của cán bộ khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí và không chấp hành nghiêm
các chính sách ưu tiên mà Đảng, Nhà nước đã đề ra đối với vùng đồng bào
còn khó khăn. Đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ,” phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong phát triển kinh tế-xã hội. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; củng cố
lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Qua đó, giúp Nhân dân luôn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền địa phương. Đập tan mọi
âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nội bộ các dân tộc,
đồng bào có đạo, kích động tâm lý ly khai, chống đối chế độ nhằm đẩy
Nhân dân đối đầu với Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương của các
thế lực thù địch.
Đảng ta khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có
vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
CTQG. H. 2001, tr.129.)
Vì vậy, cần phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
trong việc tổ chức, động viên, tập hợp các tầng lớp Nhân dân ở trong
nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc trong dịp
kỷ niệm Ngày Hội quốc phòng toàn dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo
dục cho các tầng lớp Nhân dân về tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội, ý thức năng lực của người làm chủ đồng thời thu thập phản ánh ý
kiến của Nhân dân, đề xuất với cấp ủy đảng, cơ quan Nhà nước những chủ
trương, biện pháp có mối quan hệ đến lợi ích của nhân dân và góp sức xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày Hội quốc phòng toàn dân.
Thông qua nội dung tuyên truyền giáo dục, vận dụng sáng tạo những hình
thức tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày Hội quốc phòng toàn dân mà thiết
thực góp phần củng cố, nâng cao ý thức quốc phòng của mỗi người dân
Việt Nam cả trong nước và đồng bào ở nước ngoài hướng về Tổ quốc.
Nội dung tuyên truyền giáo dục kỷ niệm Ngày Hội quốc phòng toàn dân cần
tập trung vào làm cho toàn dân nắm vững những vấn đề cơ bản về xây dựng
nền quốc phòng toàn dân. Tuyên truyền, giáo dục làm cho Nhân dân thấy rõ
những điều kiện, yếu tố mới của tình hình thế giới, khu vực và trong
nước; sự chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta bằng “diễn
biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ; vấn đề đối tác và đối tượng trong điều
kiện mới; những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đặc biệt tuyên truyền, giáo dục làm cho toàn dân hiểu rõ quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng “thế trận lòng dân” của nền quốc phòng toàn
dân trong tình hình mới.
Xây dựng “thế trận lòng dân” là yêu cầu bức thiết; là nội dung cơ bản,
vấn đề mấu chốt của việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của nền
quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Sự vững chắc của “thế trận
lòng dân” là thành lũy chắc chắn, bảo đảm cho đất nước ta có đủ sức đập
tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và cũng là
nhân tố bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng “thế trận
lòng dân” những năm qua là Đảng, Nhà nước ta đã có đường lối, chủ
trương đúng đắn và chính sách “hợp lòng dân.”
Trong tình hình hiện nay, xây dựng “thế trận lòng dân” phải bảo đảm tiếp
tục gắn kết, khơi dậy, quy tụ và phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền
thống với chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh vào thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Củng cố lòng tin của
mọi tầng lớp Nhân dân và các lực lượng vũ trang, vào bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa; vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hình thức, biện pháp tuyên truyền giáo dục phải phong phú, linh hoạt phù
hợp với trình độ nhận thức, môi trường, điều kiện công tác, học tập,
sinh sống của các đối tượng; quan tâm tuyên truyền giáo dục cho các đối
tượng là cán bộ các cấp, thanh niên, học sinh, sinh viên, các doanh
nghiệp, người Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài luôn hướng
về Tổ quốc. Thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục trong hệ
thống nhà trường, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng;
thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng; nâng cao khả năng "tự
bảo vệ” trong mỗi tổ chức, mỗi con người, mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi lĩnh
vực hoạt động để xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần của nền quốc
phòng toàn dân.
Ý thức tự nguyện của mỗi công dân trong thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là cơ sở vững chắc, sức mạnh to
lớn để Nhân dân ta vượt mọi khó khăn, trở ngại, thách thức xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh.
Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong
sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Sự ra đời, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam gắn liền với
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tình hình mới
phải kiên định quan điểm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ
sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Theo đó, phải giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thể chế hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng nhằm vừa giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; vừa bảo đảm sự quản
lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với quân đội và xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức
đảng; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ trì, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; đề cao tính tiền phong, gương mẫu
của người đứng đầu cấp ủy và chỉ huy đơn vị; giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt
đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có phẩm chất đạo
đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; có kiến thức, phương pháp,
tác phong công tác tốt, năng lực hoạt động thực tiễn, tự lực, chủ động,
sáng tạo; có khả năng xử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực
tiễn; có sức khỏe, độ tuổi phù hợp; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đồng
bộ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững chắc giữa các thế hệ cán bộ,
đáp ứng sự phát triển về nhiệm vụ, tổ chức biên chế, trang bị vũ khí của
quân đội trong thời kỳ mới.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho cán bộ,
chiến sỹ trong toàn quân, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Tăng cường dân chủ, kỷ luật trong quân đội, duy trì
nghiêm việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ
của quân đội. Đấu tranh, khắc phục có hiệu quả tình trạng vi phạm kỷ
luật nghiêm trọng.
Trong điều kiện thời bình, đất nước phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế, để mọi cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên chức quốc phòng
yên tâm gắn bó xây dựng quân đội; đồng thời, tạo động lực tiếp tục thu
hút, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quân đội thì vấn đề
đặt ra trực tiếp hiện nay là nghiên cứu đổi mới, bổ sung, hoàn thiện chế
độ, chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội.
Thực hiện chế độ, chính sách, nhất là chế độ, chính sách đãi ngộ đối với
quân đội, hậu phương quân đội là trách nhiệm của hệ thống chính trị và
xã hội. Vì vậy, cần có những biện pháp cụ thể, tích cực, khả thi nhằm
tuyên truyền, giáo dục thống nhất nhận thức cho mọi đối tượng trong xã
hội, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và ý
nghĩa của chế độ, chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội.
Từ Nhân dân mà ra, chiến đấu, hy sinh vì cuộc sống ấm no, tự do hạnh
phúc của Nhân dân là nét đặc trưng nổi bật phản ánh bản chất, truyền
thống cách mạng của quân đội ta. Lọt lòng từ phong trào cách mạng của
Nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được Nhân dân nuôi dưỡng, che
chở, cống hiến sức người, sức của để xây dựng, chiến đấu và chiến thắng
mọi kẻ thù. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với Nhân dân là
vấn đề sinh tử, trở thành truyền thống cao đẹp, nguồn sức mạnh của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, cần tiếp tục giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ ý thức phục vụ Nhân
dân; làm cho bộ đội nhận thức sâu sắc mối quan hệ máu thịt giữa quân đội
với Nhân dân là bản chất, truyền thống của quân đội; là một nội dung,
nguyên tắc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác dân vận của các đơn vị quân đội, phối hợp chặt
chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phương; tiến hành tuyên
truyền vận động nhân dân chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước; tham gia xây dựng địa phương về chính trị, kinh tế, văn
hóa-xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân; xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân địa phương vững mạnh./.