Mỗi năm Việt Nam phải chi hàng tỷ USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu phục
vụ sản xuất. Theo các chuyên gia, việc thiếu đầu tư về khoa học công
nghệ cũng như tỷ lệ nội địa hóa thấp là nguyên nhân chính đẩy nhập siêu
lên cao.
Nhiều đầu vào sản xuất phải nhập khẩu
Theo thống kê của Bộ Công Thương, kim ngạch nhập khẩu các linh kiện, phụ
tùng những năm qua rất lớn, riêng năm 2015 đạt khoảng 54 tỷ USD, trong
đó tiêng linh kiện máy vi tính, sản phẩm điện tử khoảng 21 tỷ USD, linh
kiện điện thoại đạt 10 tỷ USD.
Tại hội nghị "Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ ngành công thương
giai đoạn 2011-2015", do Bộ Công Thương tổ chức chiều 23/12, tại Hà
Nội, ông Phạm Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng đã chỉ ra một
thực tế dẫn đến sự yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ.
Theo đó, năng lực và công nghệ sản xuất của phần lớn các doanh nghiệp
trong nước còn hạn chế, hầu hết công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh
thấp, trong khi nguyên vật liệu phụ thuộc chủ yếu vào nhà cung cấp nước
ngoài.
"Đến nay, các doanh nghiệp nội địa mới chỉ cung ứng được khoảng 10% nhu
cầu nội địa về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ," ông Tuấn nói.
Tính đến đầu năm 2016, cả nước mới chỉ có gần 1.4000 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và so với tổng số 500.000 doanh
nghiệp đang hoạt động trên cả nước, tức là doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ chỉ chiếm 0,03%.
Quan trong hơn, sự yếu kém về nội lực nên hầu hết các nguyên vật liệu và
linh kiện đầu vào phục vụ cho công nghiệp chế biến, chế tạo đều phải
nhập khẩu, do đó sản phẩm cuối cùng không tạo ra giá trị gia tăng cao.
Dẫn chứng rõ nhất là ngành dệt may, năm 2015 kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành đạt 27,3 tỷ USD, đóng góp khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước. Dù vậy, lượng nguyên phụ liệu phải nhập đã đạt con số 13,4 tỷ
USD, dẫn đến giá trị gia tăng thấp.
"Dệt may Việt Nam vẫn tồn tại hạn chế "cốt tử" là tỷ lệ sản xuất nguyên
phụ liệu trong nước chưa cao, mới chỉ đạt 40%, số còn lại phải nhập
khẩu", báo cáo của Bộ Công Thương cho biết.
Công trình nghiên cứu xong "đút ngăn kéo"
Có thể thấy, thời gian qua, các cơ quan chức năng đã đưa ra hàng loạt
giải pháp phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp để chủ động đầu tư cho công
nghiệp hỗ trợ.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Chỉ Sáng, Viện trưởng Viện nghiên cứu cơ khí
(Bộ Công Thương) ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam gần như đang ở
bước đi đầu tiên so với các nước có nền công nghiệp phát triển trên thế
giới.
Ở rất nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đủ sức tự thiết
kế, chế tạo ra một số sản phẩm có sức cạnh tranh quốc tế, thậm chí là
chưa đủ sức chế tạo linh kiện, phụ tùng cho các tập đoàn đa quốc gia,
sửa chữa các trang thiết bị phức tạp...
Nguyên nhân theo vị chuyên gia này là do lợi ích của nhà nghiên cứu, nhà
sản xuất và chủ đầu tư thường xung đột nên việc ứng dụng kết quả nghiên
cứu vào thực tế sản xuất, đặc biệt là trong các dự án thuộc chương
trình kinh tế lớn rất hạn chế.
"Vẫn có một thực tế là nhiều công trình nghiên cứu xong nhưng phải "đút
ngăn kéo", không được triển khai áp dụng," Viện trưởng Viện nghiên cứu
cơ khí cho hay.
Vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ - CP về hỗ trợ và phát
triển doanh nghiệp đến năm 2020, trong đó Chính phủ đã đưa ra hàng loạt
giải pháp phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp để chủ động đầu tư cho công
nghiệp hỗ trợ.
Nhưng để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần phải có sự
quy hoạch các chính sách cụ thể về hỗ trợ về công nghệ phát triển các
sản phẩm nguyên liệu đầu vào.
Đặc biệt, cần tạo sự thông thoáng để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư và mở rộng nghiên cứu, sản xuất, cũng như
có cơ chế khuyến khích đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam để nâng cao năng suất lao động và năng lực công nghệ
quốc gia.
Nhìn nhận ở tầm vĩ mô, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho rằng,
ứng dụng khoa học công nghệ chính là nền tảng và là động lực phát
triển của các ngành kinh tế.
Bộ trưởng đề nghị ngành công thương cần đánh giá và rà soát lại các chủ
trương mà Nhà nước đã ban hành trong việc ứng dụng khoa học công nghệ.
Theo đó, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý của ngành cần tập trung
phân tích những tồn tại vướng mắc để có những giải pháp tháo gỡ kịp
thời.
"Là ngành mũi nhọn của nền kinh tế và là nơi ứng dụng rất nhiều khoa học
công nghệ, thời gia qua ngành công thương đã đóng góp nhiều cho sự phát
triển kinh tế. Tuy vậy cần dự báo những xu thế thay đổi của khoa học
công nghệ thế giới để có chính sách phù hợp với điều kiện của đất nước,
cũng như giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế", Bộ trưởng
đề nghị./.
Đức Duy (Vietnam+)