(TG) - Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017.
Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội
và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017 và các nhiệm vụ đã được đề ra
tại các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành,
các doanh nghiệp với chủ đề năm 2017 “Tăng cường kỷ cương, đề cao trách
nhiệm, thi đua sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững” tập trung triển
khai đồng bộ và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp.
Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát
Nhiệm vụ, giải pháp đầu tiên mà Nghị quyết đưa ra là ổn định kinh tế vĩ
mô, kiểm soát lạm phát, trong đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ: Kế hoạch và
Đầu tư, Tài chính, Công Thương, Ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam theo chức năng, nhiệm vụ được giao theo dõi sát diễn biến tình hình
kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và trong nước để chủ động có
phương án, giải pháp ứng phó kịp thời; phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo,
điều hành chính sách bảo đảm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
thúc đẩy tăng trưởng; kịp thời đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ các chủ trương điều hành ứng phó với diễn biến mới của tình hình thế
giới và trong nước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung
ương và địa phương điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và
hoạt động ngân hàng hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khoá
và các chính sách khác, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững. Điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, điều chỉnh cơ
cấu tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên gồm nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao,... giữ ổn định mặt bằng lãi
suất, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay trung và
dài hạn.
Bên cạnh đó, quản lý hiệu quả thị trường ngoại tệ và thị trường vàng.
Hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án chống đôla hóa và vàng hóa,
trong đó các giải pháp cần có lộ trình triển khai phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam; nghiên cứu có lộ trình, giải pháp huy động và sử dụng vào
sản xuất kinh doanh nguồn lực vàng và ngoại tệ.
Bộ Tài chính thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ và chủ động phối hợp
đồng bộ với chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm
soát lạm phát. Hoàn thành kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ, nhưng
không làm ảnh hưởng đến việc huy động và tăng trưởng tín dụng phục vụ
đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa
phương triệt để tiết kiệm ngân sách nhà nước; kiểm soát chặt chẽ dự toán
chi ngân sách nhà nước, nhất là kinh phí họp, hội nghị, hội thảo, tiếp
khách, đi công tác trong nước, nước ngoài, lễ hội, mua sắm xe ôtô và
trang thiết bị đắt tiền của các bộ, ngành trung ương và địa phương theo
tinh thần triệt để tiết kiệm.
Trong quý 2/2017, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các
chính sách nhân rộng khoán xe công; kiên quyết cắt giảm những khoản chi
thường xuyên đã có trong dự toán nhưng đến ngày 30/6/2017 chưa phân bổ
hoặc đã phân bổ nhưng chưa triển khai thực hiện, trừ trường hợp đặc biệt
được Thủ tướng Chính phủ quyết định. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng
nguồn kinh phí cải cách tiền lương của các bộ, ngành Trung ương và địa
phương.
Các bộ, ngành Trung ương và địa phương triệt để tiết kiệm các khoản chi
thường xuyên; trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước được giao, tự cân
đối, bố trí nguồn điều chỉnh tăng lương theo đúng Nghị quyết của Quốc
hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giao dự toán ngân sách nhà
nước năm 2017.
Thực hiện cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương theo chế độ: Một phần số
thu để lại theo chế độ và tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngoài lương và
có tính chất lương của các cơ quan, đơn vị; 50% nguồn tăng thu ngân sách
địa phương (không kể thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết) và giữ
lại phần tiết kiệm ở các cấp ngân sách (không kể các đơn vị sự nghiệp
công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo quy định của pháp luật)
để thực hiện cải cách tiền lương.
Đối với những địa phương ngân sách khó khăn, sau khi thực hiện cơ chế
tạo nguồn cải cách tiền lương mà vẫn thiếu nguồn, ngân sách Trung ương
hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện cải cách tiền lương năm 2017. Các địa
phương chuyển nguồn cải cách tiền lương còn dư sang năm sau để thực
hiện cải cách tiền lương theo quy định.
Ngân sách Trung ương không hỗ trợ kinh phí thực hiện cải cách tiền lương
cho các địa phương có dư nguồn cải cách tiền lương hoặc đề xuất Thủ
tướng Chính phủ chuyển nguồn thực hiện cải cách tiền lương cho nhiệm vụ
khác trong giai đoạn 2017-2020.
Nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ:
Công Thương, Khoa học và Công nghệ và các bộ, ngành Trung ương và địa
phương xây dựng, hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có tiềm năng
phát triển trong một số ngành lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung ương
và địa phương chủ động nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
tác động đến phát triển kinh tế nước ta và đề xuất cơ chế, chính sách
tận dụng tối đa cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, báo cáo
Thủ tướng Chính phủ trong quý 1/2017.
Các Bộ: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa phương thực hiện
có hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai,
nhân lực để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp hỗ
trợ, khuyến nông, sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, nông nghiệp
công nghệ cao, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các bộ, ngành Trung ương và địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được
giao tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết của Chính phủ về chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII về một số chủ trương,
chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và
Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn
2016-2020. Phấn đấu đạt được mục tiêu môi trường kinh doanh bằng mức
trung bình ASEAN-4.
Bên cạnh đó, xây dựng các giải pháp, chính sách thu hút mạnh đầu tư của
các tập đoàn đa quốc gia gắn với phát triển doanh nghiệp trong nước và
công nghiệp phụ trợ; xây dựng kế hoạch, giải pháp, lộ trình triển khai
việc áp dụng công nghệ thông tin, internet, ứng dụng số hóa trong các
ngành, lĩnh vực; xây dựng thành phố thông minh, đô thị thông minh,...
tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; thực hiện các
giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm thuộc ngành, lĩnh
vực được phân công phụ trách nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh các sản
phẩm trong nước.
Các địa phương đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu và có giải pháp cụ thể để
cải thiện từng chỉ số trong Bộ chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh (PCI) và cải cách hành chính (PAPI).
Tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Nghị quyết nêu rõ tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng gồm: Tập trung xây dựng và thực hiện cơ cấu lại ba
trọng tâm gồm cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và các tổ
chức tín dụng; cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công và các đơn vị sự
nghiệp công lập; cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế; xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu; đẩy mạnh phát
triển thị trường nội địa.
Về cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Chính
phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với
các bộ, ngành Trung ương và địa phương tổ chức triển khai thực hiện
quyết liệt cơ cấu lại nông nghiệp.
Phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; thực hiện
chuyển đổi cơ cấu, diện tích cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu
thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tập trung cải tạo giống và
nâng cao năng suất, chất lượng đàn vật nuôi; phát triển đồng bộ khai
thác và nuôi trồng thủy sản; khuyến khích nuôi công nghiệp, thực hành
quy trình nuôi tốt (GAP) theo quy chuẩn quốc tế, bảo đảm nguồn gốc, xuất
xứ sản phẩm nông nghiệp.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa
phương có kế hoạch phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu. Huy
động có hiệu quả các loại khoáng sản có trữ lượng lớn vào chế biến sâu;
phát triển công nghiệp chế biến sâu, chế biến tinh nông, lâm, thủy sản;
công nghiệp chế tạo; công nghiệp phụ trợ; tăng mạnh năng suất nội bộ
ngành, tăng hàm lượng công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản
phẩm; chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện, cụm linh
kiện, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành
Trung ương và địa phương phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp,
chất lượng, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng thương hiệu và
nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm du lịch Việt Nam; khai thác
tiềm năng du lịch bảo đảm phát triển bền vững, gắn với bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường bền vững bảo đảm an ninh,
quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
Các địa phương phát huy lợi thế của địa phương lựa chọn phát triển
ngành, lĩnh vực theo hướng tăng năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh
của nền kinh tế; kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng và
chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo; huy
động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo cơ chế thị trường;
nâng cao khả năng tổ chức hoạt động phối hợp liên tỉnh nhằm khắc phục
tính cục bộ, phát huy thế mạnh của kinh tế vùng và liên kết vùng; nâng
cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển tổng thể giữa các
vùng gắn với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thực hiện 3 đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020
Nhiệm vụ, giải pháp tiếp theo là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện 3 đột phát
trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 gồm tập trung cải
cách, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và
Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa phương đổi
mới mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi, đánh giá kết quả và
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; tăng cường các hoạt động xã
hội, nghiên cứu khoa học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức vào thực tế; triển khai chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông mới; nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt
là tiếng Anh đáp ứng yêu cầu quốc tế hóa giáo dục và đào tạo; thực hiện
phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.
Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo rà soát, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở
giáo dục và đào tạo; kiểm soát quy mô đào tạo theo hướng giảm chỉ tiêu
các ngành ít có nhu cầu tuyển dụng và chất lượng thấp; tăng dần quy mô
đào tạo các ngành có nhu cầu tuyển dụng cao và chất lượng cao; nghiên
cứu ban hành chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút nhân tài, giải quyết
việc làm tại địa phương cho sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi là người
dân tộc thiểu số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các dân
tộc thiểu số.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành
Trung ương và địa phương đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo
hướng tăng cường tính tự chủ và áp dụng cơ chế cạnh tranh về chất lượng
giữa các cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập; tăng dần đấu thầu, đặt hàng
chỉ tiêu đào tạo nghề nghiệp từ ngân sách nhà nước; nghiên cứu thí điểm
chuyển đổi một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập sang mô hình cổ
phần hóa.
Ngoài ra, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đổi mới mạnh mẽ chương trình
đào tạo theo hướng tăng nội dung thực hành, gắn kết chặt chẽ hơn với
thực tế, đáp ứng nhu cầu thị trường; tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo
dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động các doanh nghiệp tham gia dạy
nghề; rà soát quy hoạch mạng lưới trường trung cấp chuyên nghiệp, trung
cấp nghề, cao đẳng, cao đẳng nghề; ưu tiên đào tạo nhân lực ngành kỹ
thuật, công nghệ; nâng cao tỷ lệ lao động có đào tạo chuyên môn kỹ
thuật; nâng cao hiệu quả đào tạo, dạy nghề gắn với giải quyết việc làm;
đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo lao động có tay
nghề, trình độ chuyên môn cho các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung
và các dự án đầu tư lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển đất
nước; gắn đào tạo nghề với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội.
Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp
Chính phủ yêu cầu Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung
ương và địa phương tiếp tục đôn đốc triển khai thực hiện Kế hoạch cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020; nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; phối hợp với Văn
phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường công tác kiểm
tra cải cách hành chính.
Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc xây dựng cơ cấu
công chức, viên chức theo đề án vị trí việc làm đã được phê duyệt. Hoàn
thành việc xây dựng và ban hành các quy định về hệ thống tiêu chuẩn,
chức danh ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức và chức danh
lãnh đạo, quản lý từ trung ương đến địa phương.
Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ
Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành Trung ương và địa phương xây
dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ văn bản sửa đổi bổ sung các
văn bản chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan
đến cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông để phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao; nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ Nghị định về cơ
chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính và
tổ chức triển khai thực hiện sau khi Nghị định được Chính phủ ban hành;
khẩn trương xây dựng, đưa vào vận hành Cổng dịch vụ công quốc gia trong
năm 2017.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành Trung
ương và địa phương tăng cường gắn kết chặt chẽ ứng dụng công nghệ thông
tin với hoạt động cải cách hành chính; tiếp tục thực hiện Chương trình
quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà
nước giai đoạn 2016 - 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1819/QĐ-TTg
ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Các bộ, ngành Trung ương và địa phương đơn giản hóa, công khai, minh
bạch mọi thủ tục hành chính tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh
nghiệp thực hiện và giám sát, kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn; tăng
cường kiểm tra việc thực hiện thủ tục hành chính và kiến nghị sửa đổi
những quy định về thủ tục không còn phù hợp gây vướng mắc, khó khăn cho
người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương đối với cán bộ
công chức, viên chức trong triển khai thực hiện công vụ; nâng cao trách
nhiệm người đứng đầu trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương công vụ của
đơn vị mình được phân công phụ trách; nhân rộng mô hình Tổ công tác của
Chính phủ, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chỉ
đạo của cấp trên, các nhiệm vụ giao cho đơn vị mình quản lý; xử lý
nghiêm những cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu, không chấp hành kỷ
luật, kỷ cương.
Đồng thời, tăng cường triển khai có hiệu quả cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương theo Quyết
định số 09/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục triển khai có
hiệu quả Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính
phủ điện tử, tăng cường cung cấp dịch vụ công qua mạng, thuê doanh
nghiệp thực hiện cung cấp hoặc thực hiện một số khâu, thủ tục cung cấp
dịch vụ công; thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức gắn với cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước; rà soát lại toàn bộ công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai,
minh bạch tất cả các khâu trong quy trình bổ nhiệm để chọn được người
tài./.
TG