Cuối năm nay, Việt Nam chính thức tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC). Cùng với đó, một số hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và đang
chuẩn bị ký kết như FTA với Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc... đang mở
ra nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam khi hàng rào thuế quan đối với mặt
hàng này hầu hết được dỡ bỏ.
Mặc
dù, hàng rào thuế quan cắt giảm sẽ tạo cơ hội cho nông sản Việt Nam mở
rộng thị trường, tuy nhiên vấn đề này cũng đặt ra không ít thách thức
trong cạnh tranh với nông sản của các nước khác.
Cơ hội lớn cho xuất khẩu
Từ đầu năm nay, hàng loạt mặt hàng xuất nhập khẩu sẽ giảm thuế theo cam
kết của 8 hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã tham gia. Hàng loạt
các hiệp định khác đang được đàm phán và ký kết sẽ tạo điều kiện cho
nông sản Việt Nam gia tăng sản xuất và mở rộng thị trường xuất khẩu đi
khắp thế giới, thâm nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới, cạnh
tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, các hiệp định thương mại
tự do sẽ giúp Việt Nam cơ cấu, cân bằng lại thị trường xuất nhập khẩu,
tránh phụ thuộc quá lớn vào một thị trường nào đó. Đồng thời, các hiệp
định này cũng giúp doanh nghiệp có lợi thế trung hạn so với các đối thủ
trong khu vực khi xâm nhập vào một số thị trường quan trọng như Hoa Kỳ,
EU…
Phó giáo sư-tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
chia sẻ chưa bao giờ Việt Nam nỗ lực tham gia FTA như hiện nay. Sự nỗ
lực này khẳng định ý chí, tinh thần Việt Nam, dù gặp không ít khó khăn.
Tham gia vào FTA tức là Việt Nam sẵn sàng hội nhập, đương đầu thách
thức.
Đối với nông sản Việt Nam, theo ông Vũ Đình Đáp, Chủ tịch Hiệp hội Cá
ngừ Việt Nam, thuế suất giảm xuống rất có lợi cho nhà sản xuất và chế
biến. Hiện nay, đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản,
quan trọng nhất là đầu ra, nếu đầu ra không phải chịu thêm loại thuế
nào vào sản phẩm, nông dân sẽ không chịu cảnh bị ép giá, hạ giá. Đây sẽ
là cơ hội lớn cho việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
"Khi tham gia vào FTA, Việt Nam sẽ trải qua hai lộ trình giảm thuế là
năm nay và năm 2020. Trong khối ASEAN, bắt đầu từ năm 2015, có tới 93%
thuế được đưa về 0% khi các nước nhập khẩu vào Việt Nam và ngược lại; 7%
thuế còn lại đến năm 2018 đưa về 0%, với các thị trường Mỹ và châu Âu,
đến năm 2020 các mặt hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng đưa về mức thuế 0%,"
bà Phạm Châu Giang, Trưởng phòng Điều tra vụ kiện thương mại doanh
nghiệp trong nước, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương cho biết.
Cũng chính vì mức thuế giảm bằng 0%, các mặt hàng Việt Nam sẽ có nhiều
cơ hội hơn nữa thâm nhập vào các thị trường lớn, giúp nâng cao giá trị
hàng hóa của Việt Nam.
Thách thức từ chất lượng sản phẩm
Bên cạnh những thuận lợi được tạo từ việc bán hàng không thuế, các mặt
hàng nông sản của Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm từ chăn nuôi, trồng
trọt, ngành hàng gỗ sẽ đối mặt với nhiều thách thức.
Ông Nguyễn Lâm Viên, Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Vinamit chia sẻ
tập quán sản xuất của nông dân Việt Nam là sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc kháng sinh để bảo vệ cây trồng, vật nuôi trước những đợt
bệnh, dịch hại.
Cho dù phía doanh nghiệp có hợp tác sản xuất, thu mua tác động, hướng
dẫn họ cách sản xuất an toàn, hiệu quả thì mức độ này cũng chỉ giảm chứ
không chấm dứt triệt để. Hơn nữa, những vùng đất canh tác, sản xuất của
Việt Nam đều được khai thác từ lâu và thời gian nghỉ đất, phơi đất, phơi
trại quá ngắn để tái sản xuất nên mức độ tiêu diệt những mầm bệnh tiềm
ẩn không cao. Vì vậy, điểm yếu về chất lượng sản phẩm sẽ tạo ra thách
thức lớn cho cả ngành hàng nông nghiệp.
Không những vậy, ông Viên nói thêm, khi trực tiếp tham gia AEC và các
FTA, cũng có nghĩa các thương lái nước ngoài có quyền thu mua trực tiếp
nông sản của Việt Nam trên đồng ruộng. Khi đó, doanh nghiệp các nước hầu
như nắm được giá thành sản xuất, họ có thể "điều phối" sản lượng nông
sản, thậm chí diện tích gieo trồng của nông dân. Khi diện tích phát
triển đến một mức nào đó, nông dân trở thành bị động trong bán hàng, bị
thương lái nước ngoài ép giá, hạ giá, dẫn đến không có lợi nhuận hoặc từ
bỏ sản xuất.
Theo bà Phạm Châu Giang, xuất phát từ sự cạnh tranh tự do, hàng hóa muốn
tiêu thụ tốt phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Thuế suất
nhập khẩu, xuất khẩu đều bằng 0%, mặt hàng nào đạt chất lượng cao, an
toàn, giá thấp sẽ được ưu tiên lựa chọn. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt
Nam đa phần chưa có thói quen sản xuất cũng như điều kiện đầu tư cho sản
xuất chưa tới nơi tới chốn.
Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp trở ngại trong vấn đề về chất lượng
sản phẩm, nếu doanh nghiệp không thay đổi phương pháp sản xuất, mẫu mã,
đầu tư chất lượng, sẽ đánh mất thị trường cho các doanh nghiệp nước
ngoài.
Qua đó, các ngành hàng của Việt Nam nói chung, đặc biệt là các ngành
hàng nông sản, thực phẩm, gỗ nói riêng muốn đứng vững ở chính thị trường
nội địa, hay muốn hướng ra nước ngoài, ngành nông nghiệp phải có chiến
lược, giải pháp mới trong sản xuất và tiêu thụ./.