Tạp chí Tuyên giáo trân trọng giới thiệu nội dung bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Trường Đại học Quốc gia Malaya.
"Thưa Ngài Giáo sư, Hiệu trưởng Đại học Quốc gia Malaya,
Thưa Ngài Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Malaysia,
Thưa các giáo sư, giảng viên, các bạn sinh viên thân mến,
Hôm nay, tôi rất vinh dự được đến thăm và phát biểu tại ngôi trường
danh tiếng của các bạn. Đại học Quốc gia Malaya không chỉ là biểu tượng
của nền giáo dục Malaysia mà còn là một trong những trung tâm tri thức
hàng đầu của khu vực Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Với bề
dày lịch sử hơn 100 năm, Đại học Quốc gia Malaya đã trở thành nôi đào
tạo của nhiều thế hệ tài năng xuất sắc, trong đó có Ngài Thủ tướng Anwar
Ibrahim cùng 5 vị thủ tướng khác của Malaysia.
Những thành tựu về đào tạo và nghiên cứu tiên phong của Trường không
chỉ đóng góp cho sự phát triển bền vững của Malaysia mà còn mang lại
những giá trị thiết thực cho toàn khu vực ASEAN, trong các lĩnh vực từ
công nghệ, y dược, môi trường đến nghiên cứu quốc tế. Chúng tôi không
ngạc nhiên khi chứng kiến ngày càng nhiều sinh viên Việt Nam và các nước
khác đến đây nghiên cứu, học tập.
Thưa các quý vị và các bạn,
Sự phát triển và thành công của Đại học Malaya trước hết là một biểu
tượng của những thành tựu to lớn mà nhân dân Malaysia đã đạt được trong
gần 7 thập kỷ sau ngày giành độc lập. Đất nước các bạn đã trở thành một
hình mẫu tiêu biểu của sự năng động và đổi mới với một nền kinh tế đa
dạng, bền vững và đầy triển vọng. Từ một quốc gia chủ yếu dựa vào nông
nghiệp, Malaysia đã chuyển mình ngoạn mục để trở thành một trung tâm
công nghiệp, thương mại và tài chính của khu vực và thế giới.
Những thành tựu như sự phát triển mạnh mẽ trong ngành dầu khí, điện
tử, dịch vụ và du lịch không chỉ là niềm tự hào của người dân Malaysia
mà còn là nguồn cảm hứng cho các quốc gia trong khu vực ASEAN, trong đó
có Việt Nam. Những biểu tượng như Tháp đôi Petronas, hay những thành phố
năng động như Kuala Lumpur, đã trở thành hình ảnh đại diện cho một đất
nước Malaysia hiện đại, hội nhập và phát triển nhưng vẫn giữ được bản
sắc riêng.
Tuy nhiên, chúng tôi ấn tượng không chỉ ở các thành tựu mà các bạn đã
đạt được, mà còn ở những định hướng, kế hoạch lớn mà Chính phủ Malaysia
đề ra và đang triển khai thực hiện. Đó là những chiến lược dài hạn mang
tính đột phá, có tầm nhìn và hoài bão lớn, với mục tiêu trong 10 năm
đưa Malaysia nằm trong nhóm 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới, một trong
những đầu tàu khu vực về đổi mới, sáng tạo, các sản phẩm kỹ thuật cao,
phát triển xanh.
Thưa các quý vị và các bạn,
Nhìn vào con đường phát triển của các bạn đã trải qua và định hướng
cho thời gian tới, có thể thấy rõ sự tương đồng giữa Malaysia và Việt
Nam, đặc biệt là khát vọng, ý chí vươn lên của hai dân tộc và tầm nhìn
chung đối với các vấn đề của khu vực và thế giới.
Cũng như Malaysia, Việt Nam đã và đang chuyển mình mạnh mẽ. Sau gần
80 năm kể từ khi lập nước và gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử. Vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách, từ một đất
nước bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam đã giành lại độc lập và ngày nay
đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu
rộng, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại
nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng.
Hiện Việt Nam có quy mô nền kinh tế tương đương với Malaysia, nằm
trong top 40 của thế giới và thuộc nhóm 20 thị trường hàng đầu về thương
mại quốc tế. Về đối ngoại, từ chỗ bị bao vây cô lập, Việt Nam ngày nay
đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, có quan hệ Đối tác chiến lược
và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và
toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA
LHQ), là thành viên tích cực của ASEAN và hơn 70 tổ chức khu vực và quốc
tế, có quan hệ với 224 thị trường tại các châu lục. Trong ASEAN, từ năm
2015, Việt Nam đã là nước duy nhất có quan hệ ở cấp Đối tác chiến lược
với Malaysia và nay đã được nâng cấp lên một tầm cao mới - quan hệ Đối
tác chiến lược toàn diện.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó cùng sự ghi nhận của
bạn bè quốc tế đã đặt Việt Nam ở một khởi điểm lịch sử mới, tự tin vững
bước vào kỷ nguyên mới, với những định hướng mang tính chiến lược, dài
hạn cho chặng đường tiếp theo. Trong đó trọng tâm của chúng tôi là thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đánh dấu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản vào năm 2030 và 100 năm lập nước vào năm 2045, trong khi tiếp
tục kiên định độc lập, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc,
đa phương hóa, đa dạng hóa, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; đồng thời tăng
cường đóng góp và trách nhiệm của Việt Nam trong nền chính trị thế giới,
kinh tế toàn cầu, văn minh nhân loại.
Thưa quý vị và các bạn,
Con đường phát triển của Việt Nam không thể tách rời với thế giới và
khu vực. Chúng tôi hiểu rõ Việt Nam không thể thực hiện các mục tiêu nói
trên nếu thiếu sự đoàn kết quốc tế trong sáng, sự ủng hộ quý báu và hợp
tác hiệu quả của cộng đồng quốc tế, trong đó có Malaysia và các đối tác
ASEAN.
Trong phần lớn chặng đường phát triển của hai nước chúng ta, Việt Nam
và Malaysia đã đồng hành, hợp tác, chia sẻ, cùng nhau vươn lên. Giao
thương giữa hai nước đã bắt nguồn từ xa xưa trong lịch sử. Malaysia và
quan hệ Việt Nam - Malaysia luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong
đường lối đối ngoại của Việt Nam. Là những dân tộc đã sinh sống và phát
triển lâu đời tại Đông Nam Á, Việt Nam và Malaysia chia sẻ những điểm
tương đồng chiến lược to lớn. Hai nước chúng ta cùng hiểu sâu sắc giá
trị của độc lập, tự do và chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, do đã cùng phải
hứng chịu những hậu quả của chế độ thực dân.
Chúng ta cùng có nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc, đa sắc tộc, coi
trọng sự thống nhất trong đa dạng, ngày càng phát huy giá trị trong bối
cảnh phát triển mới. Hai nước cùng có thế giới quan rộng mở, sẵn sàng
hợp tác quốc tế, tiếp thu tinh hoa nhân loại, trên cơ sở bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau; cùng coi trọng những mối giao thương, liên kết quốc tế,
thúc đẩy thương mại, đầu tư, công nghệ.
Trong một thế giới nhiều biến động, Việt Nam và Malaysia cùng chia sẻ
những lợi ích chiến lược và quan điểm chung trên nhiều vấn đề quốc tế,
trong đó có những vấn đề thuộc lợi ích sát sườn của mỗi bên, như bảo đảm
tự chủ chiến lược của mỗi nước, của ASEAN trong một thế giới biến động,
hạn chế tác động tiêu cực của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
bảo đảm không gian phát triển của hai nước. Cùng là thành viên ASEAN,
thành viên Phong trào Không liên kết, hai nước cùng có cách tiếp cận về
đối ngoại hài hòa, thỏa đáng, không chọn bên mà lựa chọn những gì tốt
nhất cho hòa bình, an ninh, phát triển của mỗi nước và của cả khu vực,
dựa trên luật pháp quốc tế.
Chính vì vậy, Việt Nam rất vui mừng trước những sự phát triển toàn
diện của quan hệ hai nước thời gian qua. Malaysia có nhiều dấu ấn nổi
bật đối với Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế. Những
cuộc tiếp xúc giữa lãnh đạo hai nước, các kinh nghiệm và đóng góp quý
báu của Malaysia đã góp phần giúp Việt Nam mở cửa và hội nhập thành
công. Chỉ một thời gian ngắn sau các chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam tới các nước ASEAN vào đầu những năm 1990, trong đó có
Malaysia, Việt Nam gia nhập ASEAN. Khi đó Tổng Thư ký ASEAN là người
Malaysia.
Năm 1998, Việt Nam được kết nạp làm thành viên Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ngay tại chính Thủ đô Kuala Lumpur
của các bạn. Malaysia cũng là một trong những đối tác đầu tiên trên thế
giới đầu tư vào Việt Nam trong thời kỳ mở cửa của Việt Nam - trong đó
biểu tượng cho sự đồng hành và thành công là các lĩnh vực dầu khí
(Petronas) và ngân hàng (Public Bank Berhad).
Tin cậy chính trị giữa hai bên không ngừng được củng cố sâu sắc. Các
cơ chế hợp tác đa dạng, thực chất, trong nhiều lĩnh vực quan trọng với
hai nước đều được quan tâm, thúc đẩy, từ thương mại, đầu tư, khoa học –
kỹ thuật, đến quốc phòng, an ninh. Hợp tác kinh tế ngày càng sâu rộng.
Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam trong ASEAN, thứ
11 toàn cầu. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Malaysia trong
ASEAN.
Năm nay, kim ngạch thương mại đang có đà tăng trưởng với kỳ vọng đạt
15%. Malaysia cũng là nhà đầu tư thứ 10 trong các quốc gia có đầu tư tại
Việt Nam. Giao lưu, hợp tác giữa nhân dân hai nước ngày càng lan tỏa
rộng rãi, với sự đóng góp của hơn 800.000 khách du lịch, hàng chục nghìn
lao động, sinh viên tới mỗi nước.
Ngay tại đây, Đại học lớn nhất Malaysia, sợi dây liên kết giữa nhân
dân hai nước đang được thắt chặt thêm mỗi ngày, với những chương trình
liên kết và đào tạo sinh động về Việt Nam. Tôi tin tưởng rằng chuyến
thăm của chúng tôi hôm nay sẽ góp phần làm phong phú thêm mối liên kết
đa dạng về văn hóa, giáo dục giữa Malaysia với Việt Nam.
Với sự coi trọng đối với Malaysia, với những thành quả và tiềm năng
quan hệ to lớn như vậy, Việt Nam luôn mong muốn tiếp tục làm sâu sắc
quan hệ giữa hai nước. Trong chuyến thăm của tôi tới Malaysia, tôi và
Ngài Thủ tướng Anwar Ibrahim đã nhất trí nâng cấp quan hệ lên Đối tác
chiến lược toàn diện. Hiện Việt Nam là đối tác duy nhất của Malaysia
trong ASEAN có quan hệ ở mức cao nhất này.
Chúng tôi tin tưởng khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện vừa thiết
lập sẽ mở ra kỷ nguyên phát triển mới trong quan hệ hai nước, hỗ trợ, bổ
sung đắc lực cho con đường phát triển, vì hòa bình, ổn định, thịnh
vượng của mỗi nước và cả khu vực.
Cũng trong chuyến thăm này, hai bên đã nhất trí thúc đẩy tin cậy
chính trị ngày càng sâu sắc, rộng rãi, nhất là thông qua trao đổi thường
xuyên giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước; tăng cường hiệu quả của các cơ
chế hợp tác hiện có và xem xét thành lập thêm các cơ chế phù hợp với nhu
cầu hợp tác mới.
Bên cạnh đó, hai bên sẽ thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mới, nhất
là các lĩnh vực mỗi bên có thế mạnh, bổ sung cho nhau, như Việt Nam
chia sẻ về quá trình phát triển nông nghiệp đa dạng, Malaysia trao đổi
về kinh nghiệm phát triển các trung tâm công nghệ mới. Chúng tôi cũng
cho rằng kết nối kinh tế song phương cần được củng cố, đặt mục tiêu phấn
đấu đưa kim ngạch thương mại giữa hai nước sớm có các bước phát triển
đột phá, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các chuỗi giá
trị mà mỗi bên có thế mạnh như về sản xuất chip điện tử.
Hai bên cũng thống nhất tăng cường phối hợp về các vấn đề quốc tế,
tạo điều kiện để mỗi bên mở rộng đóng góp vào nền chính trị thế giới,
nền kinh tế quốc tế, nền văn minh nhân loại. Hai nước có trách nhiệm
cùng đề cao luật pháp quốc tế, cách thức hành xử trong quan hệ quốc tế
dựa trên đối thoại, hành động tập thể, không sử dụng vũ lực, phát huy
hiệu quả của hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ. Là các quốc gia ven biển,
kinh tế và an ninh gắn với biển, hai bên chia sẻ lợi ích trong việc đề
cao một hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp với các mối liên kết, thương
mại, đầu tư tự do, rộng mở, bảo đảm an ninh, tự do hàng hải, hàng không
tại các vùng biển trên thế giới, phù hợp với Công ước LHQ về Luật Biển
năm 1982 (UNCLOS).
Thưa các quý vị và các bạn,
Chặng đường tiếp theo của Việt Nam và Malaysia, của quan hệ hai nước
chúng ta cũng như việc bảo đảm một hệ thống quốc tế công bằng, rộng mở,
dựa trên luật pháp quốc tế phụ thuộc lớn vào sự phát triển vững mạnh của
ASEAN. Tuy nhiên, tương lai của ASEAN lại tuỳ thuộc vào quyết tâm của
mỗi nước thành viên, trong đó có Malaysia và Việt Nam.
Từ khi ra đời năm 1967, ASEAN đã đạt những bước tiến dài. Thành lập
trong bối cảnh khu vực đầy chia rẽ, ASEAN đã không ngừng mở rộng, phát
triển và trở thành một cộng đồng bền vững, đoàn kết, thể hiện sự trưởng
thành, bản lĩnh và kiên định trước mọi thách thức.
Trong bối cảnh quốc tế đang diễn ra những xu hướng bất lợi cho sự gắn
kết khu vực, ASEAN đã luôn thể hiện sự kiên định, vững vàng. Từ vai trò
trung tâm tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN không chỉ duy trì
sự cân bằng mà còn phát huy tính độc lập và chủ động trong quan hệ quốc
tế. Lấy các nguyên tắc cơ bản làm định hướng như Hiệp ước Thân thiện và
hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương, ASEAN đã thành công trong việc điều hòa lợi ích, dung hòa khác
biệt, hài hòa quan tâm của các nước khi tham gia hợp tác ở khu vực.
Các cơ chế của ASEAN như ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á tiếp tục
khẳng định giá trị chiến lược trong việc thúc đẩy đối thoại, xây dựng
lòng tin và tăng cường hợp tác, tạo nền tảng vững chắc cho việc định
hình cấu trúc khu vực đa tiến trình, đa tầng nấc và đa lĩnh vực với
ASEAN ở vị trí trung tâm.
Đồng thuận về ý chí để đi đến thống nhất trong ứng xử và hành động,
ASEAN đã thể hiện rõ nét năng lực “ứng vạn biến” của mình trên cơ sở sứ
mệnh “bất biến” là giữ vững môi trường hòa bình, an ninh, ổn định và hợp
tác phát triển ở khu vực. Trong suốt hành trình gần 6 thập kỷ, đặc biệt
trong những năm gần đây, ASEAN luôn thể hiện sự nhạy bén và kịp thời
trong việc ứng phó với các vấn đề khu vực và quốc tế. Từ các điểm nóng
toàn cầu đến khu vực, các nước thành viên đều chia sẻ nhận thức và trách
nhiệm trong việc củng cố đoàn kết và phát huy tiếng nói chung của
ASEAN.
Từ việc đồng thuận 5 điểm hỗ trợ Myanmar tìm giải pháp lâu dài và bền
vững, củng cố lập trường nguyên tắc và tiếng nói chung trong vấn đề
Biển Đông, đến duy trì cách tiếp cận cân bằng, nhất quán về xung đột,
căng thẳng ở nhiều nơi trên thế giới, ASEAN đã khẳng định vai trò là một
tổ chức giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác.
Đặc biệt, ASEAN nhận thức rõ giá trị của hòa bình trong bối cảnh
nhiều khu vực trên thế giới vẫn chìm trong xung đột. Hòa bình không phải
điều hiển nhiên mà là kết quả của nỗ lực chung, sự đồng lòng của tất cả
thành viên ASEAN. Sự kiên trì, tinh thần tự cường và khả năng ứng biến
của ASEAN trên cơ sở “tư duy Cộng đồng, hành động cùng nhau” là những
yếu tố cốt lõi giúp tổ chức vượt qua khó khăn và ngày càng gắn kết, đạt
được vị thế như hôm nay.
Thành công về chính trị của ASEAN chính là nền tảng cho sự phát triển
kinh tế và xã hội của các quốc gia thành viên. Trong một thế giới đầy
biến động, ASEAN nổi bật như một hình mẫu đoàn kết và điểm sáng tăng
trưởng. Hiện ASEAN đã trở thành một trong những khu vực phát triển năng
động nhất thế giới, với tổng GDP năm 2023 đạt 3.800 tỷ USD, tăng hơn 50%
so với năm 2015. Dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực đạt 4,6% vào năm
2024 và 4,8% vào năm 2025, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu
và đang hướng tới trở thành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm
2030.
Đồng thời, các nước thành viên đều nhận thức được sâu sắc rằng ASEAN
đang đứng trước nhiều vấn đề lớn. Môi trường địa chính trị đang có những
biến đổi sâu rộng. Hiệu quả hợp tác của ASEAN, nhất là liên kết nội
khối còn những hạn chế. Một số cơ chế hợp tác của ASEAN chưa phát huy
hiệu quả như mong muốn. Tiến trình thúc đẩy gắn kết trong ứng phó các
vấn đề quốc tế còn gặp thách thức.
Mặc dù vậy, Việt Nam luôn lạc quan vào tương lai của ASEAN và chủ
động, tận tâm đóng góp cho sự vững mạnh của tổ chức. Từ khi gia nhập năm
1995, Việt Nam luôn tích cực tham gia và đóng góp vào các sáng kiến và
chương trình hành động của cộng đồng.
Trong suốt gần 30 năm qua, tham gia ASEAN luôn là ưu tiên chiến lược
và lựa chọn hàng đầu của Việt Nam với nhận thức rõ ràng, coi ASEAN là
không gian chiến lược, góp phần tạo dựng cục diện thuận lợi, giữ vững
môi trường hòa bình, an ninh, ổn định, phát triển cho Việt Nam. Trên nền
tảng “đổi mới, sáng tạo, hội nhập”, Việt Nam không chỉ là một thành
viên chủ động mà còn đóng vai trò cầu nối, góp phần củng cố sự đoàn kết
và thống nhất trong ASEAN, trở thành một thành viên uy tín, trách nhiệm,
nỗ lực hết mình, hợp tác chân thành, tin cậy và đóng góp tận tâm.
Trong hành trình phát triển tiếp theo, với quyết tâm thực hiện mục
tiêu chiến lược kỷ niệm 100 năm lập quốc và chủ trương tăng cường đóng
góp và trách nhiệm của Việt Nam trong nền chính trị thế giới, kinh tế
toàn cầu, văn minh nhân loại, phù hợp với Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2045,
Việt Nam hiểu rõ trách nhiệm tham gia chủ động và đóng góp nhiều hơn
cho công việc chung, với phương châm sáng tạo trong tư duy, đổi mới
trong tiếp cận, linh hoạt trong triển khai, hiệu quả trong cách làm, và
quyết liệt trong hành động.
Chúng tôi kỳ vọng về sự vươn lên hơn nữa của Cộng đồng ASEAN cũng như
mỗi nước thành viên trong kỷ nguyên mới, vì sự phát triển của mỗi nước,
vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới. Năm
2025 sắp tới, với vai trò Chủ tịch của Malaysia, chúng tôi tin tưởng
ASEAN sẽ đạt được những bước tiến quan trọng hướng tới một cộng đồng
thịnh vượng, đoàn kết và phát triển. Việt Nam cam kết mạnh mẽ sẽ đồng
hành cùng
Malaysia và ASEAN trên hành trình này.
Thưa quý vị và các bạn,
Để thực hiện tầm nhìn đó, vai trò của các trí thức trẻ, nhà nghiên
cứu và sinh viên như các bạn ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết. Việt Nam và Malaysia đều chia sẻ quan điểm đặt con người ở vị trí
trung tâm của sự phát triển. Lãnh đạo hai nước qua các thế hệ luôn coi
giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ là nền tảng của phát
triển. Đại học Malaya chính là biểu tượng của những nỗ lực đó ở
Malaysia.
Tại Việt Nam, chúng tôi coi giáo dục - đào tạo là quốc sách, ưu tiên
đầu tư cho phát triển, đi trước các lĩnh vực khác; coi phát triển nguồn
nhân lực là một trong ba đột phá chiến lược. Chúng tôi đặt mục tiêu phấn
đấu tăng hạng giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và quốc
tế, đến năm 2030 Việt Nam trong ba nước đứng đầu ASEAN về số lượng các
công bố quốc tế và chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa
học; có trường đại học trong Top 100 trường hàng đầu trên thế giới.
Nhìn rộng ra khu vực, giáo dục-đào tạo chính là động lực, là nền tảng
đưa ASEAN và mỗi nước thành viên vươn lên trong thế giới đầy biến động.
Các trung tâm đào tạo, nghiên cứu của khu vực, trong đó có Đại học
Malaya, sẽ góp phần định hình tương lai của khu vực, đóng góp rất quan
trọng vào hoà bình, ổn định, thịnh vượng và phát triển không chỉ ở Đông
Nam Á.
Xin chúc các bạn sinh viên của Đại học Malaya luôn tràn đầy cảm hứng
sáng tạo và thành công. Chúc các nhà nghiên cứu và giảng viên của Trường
tiếp tục đào tạo nên những thế hệ xuất sắc, đóng góp cho sự phát triển
của Malaysia, Việt Nam và ASEAN.
Xin trân trọng cảm ơn các quý vị và các bạn!./.
TTXVN