Một
trong những nội dung quan trọng của định hướng xây dựng và phát huy giá
trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được Đại hội XIII của Đảng đề
ra là “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành
công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy
sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”(1).
Hiểu một cách khái quát, sức mạnh mềm là
khả năng đạt được những gì mà một quốc gia mong muốn thông qua việc gây
ảnh hưởng, tạo sự hấp dẫn bởi những yếu tố tạo nên sức mạnh mềm. Đó là
hệ giá trị văn hóa; hệ giá trị chính trị - xã hội; mô hình nhà nước và
chính sách (đối nội cũng như đối ngoại) của quốc gia đó. Trong đó, hệ
giá trị văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) có vai trò đặc biệt quan trọng.
Nó “thẩm thấu” vào hệ giá trị chính trị - xã hội, mô hình nhà nước và
chính sách quốc gia. Khác với sức mạnh cứng (uy hiếp về quân sự, ép buộc
bằng kinh tế, áp đặt bằng luật, lệ...) để buộc người khác, quốc gia
khác đi theo thì đặc trưng cơ bản của sức mạnh mềm là sự hấp dẫn, lôi
cuốn, thu hút, thuyết phục, cảm hóa đối tác để họ thay đổi nhận thức,
hành vi và tự nguyện, tự giác hợp tác, đi theo chủ thể sở hữu.
Sức
mạnh mềm không nhất thành bất biến, mà phụ thuộc vào bối cảnh tiếp nhận
và chủ thể sở hữu. Chủ thể sở hữu sức mạnh mềm có đại biểu cho xu hướng
phát triển, tiến bộ hay không? khả năng làm cho sức lan tỏa, ảnh hưởng
của nó trong đời sống xã hội như thế nào? giá trị văn hóa cũng như các
giá trị căn bản của quốc gia hay mô hình nhà nước và chính sách đối nội,
đối ngoại của quốc gia đó được các nước khác biết đến ít hay nhiều...
Điều này phụ thuộc rất lớn vào công tác truyền thông, quảng bá, khả năng
thuyết phục, chấp nhận thông tin do chủ thể sở hữu nắm giữ.
SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM
Có
thể hiểu, sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam là khả năng đạt được những gì
mà dân tộc, nhân dân Việt Nam mong muốn thông qua việc gây dựng ảnh
hưởng, tạo sự hấp dẫn bởi giá trị văn hóa Việt Nam, hệ giá trị chính trị
- xã hội và mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chính sách
đối nội và đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển.
Như
nhiều quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam cũng có nền văn hóa của riêng
mình. Đó là “thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”(2).
Văn hóa Việt Nam - như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh - là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam, làm nên sức sống
mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió
và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát
triển và lớn mạnh, viết nên những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường
trong hoạn nạn, bởi khí phách hào hùng trong giữ nước và dựng nước;
“chất văn hóa... là tinh hoa của dân tộc, của quý nhất mà ngày nay mọi
người Việt Nam chúng ta tự hào là người thừa kế và phát triển(3).
Trải
qua biết bao biến cố và thăng trầm của lịch sử, chịu ảnh hưởng của
nhiều nền văn hóa khác nhau, nhưng văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa,
mà vẫn giữ vững bản sắc và thể hiện sức sống mãnh liệt của mình trong
khả năng tiếp biến linh hoạt và đầy sáng tạo. Khả năng “Việt hóa” hay sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là những minh
chứng cho sự tiếp biến đầy sáng tạo và sức sống mãnh liệt của sức mạnh
mềm văn hóa Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhất là sau khi công bố Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) và
triển khai thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Hội
nghị Trung ương 5 khóa VIII Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đã có chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả quan trọng. “Nhận
thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các
lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp
ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa
truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy”(4), góp phần quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới.
Chương trình nghệ thuật khai màn
Tuần lễ Festival Huế 2022 với chủ đề "Di sản văn hóa với hội nhập và
phát triển". (Ảnh: VGP)
Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa Việt Nam
càng có nhiều cơ hội để lan tỏa ra thế giới. Cái hay, cái đẹp trong ngôn
ngữ, trong âm nhạc, trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam hay tính
nhân văn trong văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp... của người Việt Nam
không chỉ là sức mạnh nội sinh đối với sự phát triển bền vững của đất
nước, mà còn có sức lan tỏa đến nhiều nền văn hóa, nhiều quốc gia, thu
hút hàng triệu trái tim, khối óc của người dân đến từ nhiều quốc gia -
dân tộc khác nhau trên thế giới. Không ít đoàn nghệ thuật của Việt Nam
đi công diễn ở nước ngoài được đón nhận một cách nồng nhiệt; không ít
tác phẩm văn học của các tác giả Việt Nam được dịch ra nhiều thứ tiếng,
như thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du hay Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài...
Đến
nay, Việt Nam có hàng chục di sản văn hóa được UNESCO vinh danh. Trong
đó, không ít loại hình nghệ thuật, nhất là nghệ thuật biểu diễn của Việt
Nam, được UNESCO vinh danh là kiệt tác truyền khẩu, là di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại, như: Không gian văn hóa Cồng chiêng
Tây Nguyên được công nhận năm 2005; Nhã nhạc cung đình Huế được công
nhận năm 2008; Dân ca Quan họ, Ca trù được công nhận năm 2009; Hội Gióng
tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội được công nhận năm 2010; di sản
Thực hành hát Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam được công nhận
năm 2019. Các di sản văn hóa này có sức lan tỏa và hấp dẫn lớn đối với
người dân nhiều nước trên thế giới, góp phần làm phong phú thêm văn hóa,
văn minh nhân loại, đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng:
“Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài
sản chung của tất cả các dân tộc... và từ những nền văn học dân tộc và
địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế
giới”(5).
Từ
chỗ chưa có tên trên bản đồ thế giới, đến nay, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu
lục khác nhau. Tham gia và tham gia ngày càng tích cực vào nhiều tổ chức
và diễn đàn khu vực và toàn cầu, trong đó có Liên hợp quốc, Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), ASEAN, Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Tổ chức thành công
nhiều hội nghị, đàm phán tầm quốc tế, như Hội nghị cấp cao ASEM; đảm
nhiệm thành công vai trò chủ nhà của APEC năm 2006 và 2017; Hội nghị Cấp
cao ASEAN năm 2010; hay cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm
2019... Qua kênh ngoại giao văn hóa và nhiều kênh khác, thế giới biết
nhiều hơn về một Việt Nam giàu đẹp, hiếu khách, kiên cường, hòa hiếu,
thủy chung với hàng nghìn năm văn hiến; uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng tăng; dấu ấn Việt Nam ngày càng sâu đậm;
sức mạnh mềm của Việt Nam nói chung, của văn hóa Việt Nam nói riêng ngày
càng được nhân lên gấp bội, trở thành một trong những động lực thúc đẩy
kinh tế, xã hội Việt Nam ngày càng phát triển. Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Có
thể khẳng định, trong bất cứ hoàn cảnh nào, chiến tranh hay hòa bình,
bao vây cấm vận hay hội nhập, sức sống Việt Nam nói chung, văn hóa Việt
Nam nói riêng không ngừng phát triển và lớn mạnh, luôn luôn trỗi dậy với
một sức mạnh phi thường. Với lợi thế của mình, sức mạnh mềm văn hóa
Việt Nam đã góp phần làm sâu sắc thêm giá trị nhân văn, hun đúc nên
tâm hồn, cốt cách, khí phách, bản lĩnh con người Việt Nam, tô thắm lịch
sử vẻ vang của dân tộc.
Du khách tham quan làng nghề làm đèn lồng ở phố cổ Hội An. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)
Tuy
nhiên, so với những thành tựu mà chúng ta đạt được trên lĩnh vực chính
trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại..., thành tựu trong lĩnh
vực văn hóa chưa tương xứng. “Văn hóa chưa được quan tâm tương
xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động
lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”(6). Mức đầu
tư cho văn hóa mới chỉ bảo đảm duy trì hoạt động “ổn định”, chứ chưa
thực sự có sự đột phá ưu tiên. So với tổng chi thường xuyên của ngân
sách Trung ương, chi cho văn hóa (trong cả giai đoạn 2010 - 2017) cũng
chỉ chiếm trung bình 1,16% và bằng khoảng 0,1% GDP, tức là bằng khoảng
1/5 - 1/6 mức chi cho sự nghiệp kinh tế và bảo vệ môi trường(7).
Một số cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh
tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa còn thiếu cụ thể,
chưa rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
hoạt động văn hóa nhìn chung còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu
đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Đặc biệt, chúng ta vẫn còn có ít tác
phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; chưa
có nhiều tác phẩm có sức lan tỏa lớn ra cộng đồng thế giới.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Thứ nhất, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong nhận thức về sự cần thiết phải xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Thực sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Bảo vệ và phát huy các giá trị
tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn
kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; là đức hy
sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; là
sự tế nhị trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống(8). Các
giá trị này cần được thể hiện trong văn học, nghệ thuật; trong văn hóa
ứng xử, giao tiếp; trong văn hóa ngoại giao..., thu hút sự quan tâm, tạo
nên sức hấp dẫn đối với đông đảo bạn bè trên thế giới. Bên cạnh đó,
“Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát
triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(9),
“Chú trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự
do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật; khuyến khích những tìm
tòi mới làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam; hạn chế các lệch
lạc, các biểu hiện chạy theo thị hiếu tầm thường”(10).
Thứ hai, xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa có đủ phẩm chất, năng lực và
tăng cường nguồn lực cho phát triển văn hóa. Chủ thể của văn hóa là con
người, văn hóa là sản phẩm của con người, do con người và vì con người.
Do đó, muốn xây dựng và phát triển văn hóa nhất định phải có con người
làm (hoạt động) văn hóa, trong đó đội ngũ lãnh đạo, quản lý văn hóa đóng
vai trò hết sức quan trọng. Các giá trị tốt đẹp, bền vững trong văn hóa
Việt Nam có được giữ gìn, phát huy và quảng bá rộng rãi trên thế giới
hay không, có tạo được sự hấp dẫn, thán phục với đông đảo người thụ
hưởng văn hóa hay không... phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ những người làm
công tác văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt - với tư
cách là chủ thể văn hóa. Do đó, trong thời gian tới, tập trung: “Đào tạo
và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu trong
lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhất là cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về
văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ”(11). Trước mắt, cần “Rà soát toàn bộ hệ thống các
trường đào tạo văn hóa, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hóa quy trình, nội
dung, phương thức đào tạo để trong 5 - 10 năm tới khắc phục về cơ bản
sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa”(12). Đồng
thời, “Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực văn
hóa đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình
trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo
đảm hiệu quả đầu tư cao trong lĩnh vực văn hóa”(13).
Chương trình nghệ thuật "Vì một Hà
Nội đáng sống" với sự tham gia của dàn hợp xướng Đa Dạng, hợp xướng
Hanoi Voices, cùng nhiều nghệ sĩ trong và ngoài nước được tổ chức tại Hà
Nội. (Ảnh: TTXVN)
Thứ ba, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa. Đây là xu thế của thời
đại, toàn cầu hóa và hội nhập thế giới đang thu hút nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ tham gia, trong đó có Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng nhấn
mạnh: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt
Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời
chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước
đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”(14). Theo đó, đẩy mạnh
việc quảng bá, giao lưu, phổ biến văn hóa Việt Nam ra thế giới, nhất là
yếu tố “mềm” của văn hóa (hệ giá trị, chuẩn mực, niềm tin...); xây dựng
một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật;
chủ động mở rộng và tích cực hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa
dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn
hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực.
Cùng
với việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ
của văn hóa các nước trên thế giới, cần khắc phục những tác động xấu,
tiêu cực len lỏi vào văn hóa Việt Nam, nhất là tình trạng nhập khẩu,
quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài có
tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân. “Kiên
quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc,
phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ
tục”(15).
Thứ tư,
trong điều kiện công nghệ số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
cần “phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và
dịch vụ văn hóa..., vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành
tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”(16);
gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch và dịch vụ văn hóa, đưa
du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, tạo thế đan xen lợi ích và độ
tin cậy để văn hóa Việt Nam ngày càng lan tỏa sâu, rộng hơn ra thị
trường văn hóa thế giới; để thế giới biết nhiều hơn, chính xác hơn về
đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp, giàu bản sắc./.
PGS. TS. Trần Sỹ Phán
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
______________________
(1) (4) (6) (9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.145, 64, 84, 143, 145.
(2) (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.40, 10-11.
(3) Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, tr.17.
(5) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2002, t.4, tr.602.
(7) Ngô Thắng Lợi: Tác động của tăng trưởng kinh tế đến phát triển văn
hóa ở Việt Nam hiện nay, http://tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/495217/tac-dong-cua-tang-truong-kinh-te-den-phat-trien-van-hoa-o-viet-nam-hien-nay.aspx.
(Nguồn: TC Cộng sản)