Theo đánh giá của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Trung tâm Nghiên cứu Biển và Hải đảo-Đại học Quốc gia Hà Nội: Năng lực nội sinh và nhu cầu nội vùng của dải ven biển Việt Nam rất đáng kể. Đây là nơi tập trung đa dạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hệ thống tài nguyên và hệ sinh thái quan trọng bậc nhất tạo tiền đề cho phát triển đa ngành, đa mục tiêu. Đồng thời, nơi đây còn tập trung trên 50% dân số cả nước, 50% các đô thị lớn với kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, nhiều khu công nghiệp lớn đang được đầu tư phát triển mạnh, trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia.
Dải ven biển là không gian chuyển tiếp giữa lục địa và biển, luôn chịu tác động tương tác qua lại giữa quá trình lục địa và biển. Do đó cần được đầu tư xây dựng thành vùng kinh tế động lực, bởi nơi đây có khả năng phát triển nhiều ngành nghề khác nhau như du lịch, cảng biển, thủy sản, khai khoáng...nhằm tạo ảnh hưởng lan tỏa hỗ trợ cho các vùng nội địa của nước ta, mặt khác tạo ra cơ sở cho phát triển một nền kinh tế biển lâu dài.
Theo đánh giá của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Trung tâm Nghiên cứu Biển và Hải đảo-Đại học Quốc gia Hà Nội: Năng lực nội sinh và nhu cầu nội vùng của dải ven biển Việt Nam rất đáng kể. Đây là nơi tập trung đa dạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hệ thống tài nguyên và hệ sinh thái quan trọng bậc nhất tạo tiền đề cho phát triển đa ngành, đa mục tiêu. Đồng thời, nơi đây còn tập trung trên 50% dân số cả nước, 50% các đô thị lớn với kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, nhiều khu công nghiệp lớn đang được đầu tư phát triển mạnh, trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia.
Một dải đất hẹp với bờ biển dài trên 3.260km vừa có lợi thế trong phát triển kinh tế, vừa là khu vực phòng thủ đất nước mang tính chiến lược. Vì vậy, để phát huy thế mạnh và hạn chế điểm yếu, việc đa dạng hóa các loại hình phát triển đối với các vùng tự nhiên-sinh thái ven biển khác nhau, về bản chất là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược. Hay nói cách khác là phải tạo ra lợi thế và “đặc sản” vùng miền trong quá trình phát triển, để tránh các “hội chứng xấu” trong phát triển.
Việt Nam cần chú ý đến phát triển dịch vụ cảng "quá cảnh" đối với các nước, hoặc vùng lãnh thổ không có biển lân cận và vùng nội địa của các nước ASEAN, cũng như dịch vụ các hàng hải và tìm kiếm cứu nạn trên Biển Đông. Điều này tạo ra tiền đề cho việc hoạch định một chiến lược kinh tế biển tầm cỡ, gắn với nền quốc phòng và an ninh trên biển vững chắc, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển.
Đặc biệt, dải ven biển còn là “bàn đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt động ở những vùng biển xa bờ, thông qua các trung tâm kinh tế trên các hải đảo. Do vậy, dọc ven biển phải kiến tạo được các cực phát triển mạnh hướng biển. Đó là các đô thị lớn và trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội...ven biển, có bán kính ảnh hưởng rộng ra biển, có khả năng đối trọng với các cực phát triển lớn trong khu vực Biển Đông, các hành lang, tam giác kinh tế tăng trưởng ven biển.
Bên cạnh đó, vùng nước lợ cũng là mảng không gian thuộc dải ven biển tuy có diện tích hẹp, nhưng rất quan trọng đối với phát triển “quỹ đất dự phòng quốc gia” và thủy sản bền vững. Chính nơi này là chỗ trú ngụ tự nhiên, nơi sinh sản và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thủy sinh vật không chỉ ở ngay trong vùng, mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa. Các hệ sinh thái như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn...đều tập trung tại đây, cung cấp tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học biển và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Chúng có tính liên kết sinh thái tự nhiên mật thiết với nhau, tạo ra những "dây xích sinh thái" quan trọng đối với toàn vùng biển, mà một trong các mắc xích bị tác động sẽ ảnh hưởng đến các mắc xích còn lại.
Hiện nay, diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản ở vùng triều của nước ta vào khoảng 1.130.000ha, trong những năm đã đóng góp gần 60% tổng sản lượng thủy sản toàn quốc, góp phần đáp ứng gần 40% protein cho người dân. Một số diện tích trồng lúa, cói và làm muối kém hiệu quả ở ven biển có thể chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản gần 500.000ha. Diện tích các đầm phá tập trung ở các tỉnh Miền Trung có khả năng phát triển thủy sản cũng lên tới 12.000ha (từ Thừa Thiên-Huế đến Bình Thuận). Ngoài ra, còn có khả năng đưa 20.000ha vùng bãi ngang sát biển vào nuôi trồng thủy sản, nhưng với điều kiện phải bảo vệ được nguồn nước ngầm ngọt khan hiếm ở ven biển.
Với tiềm năng phong phú và đa dạng, nên việc quy hoạch phát triển dải ven biển phải được đặc biệt chú trọng trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Qua đó, sẽ tập trung phát triển một nền kinh tế tổng hợp đa ngành trên dải ven biển dựa vào hệ sinh thái, ít chất thải, ít cac-bon, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, công nghệ sạch hơn, an toàn thực phẩm và sản phẩm biển có sức cạnh tranh cao; đồng thời kéo theo nhu cầu liên kết vùng và giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong phát triển đang là vấn đề đặt ra cấp thiết hiện nay./.
TTX