Thứ Sáu, 4/10/2024
Kinh tế
Thứ Ba, 26/1/2016 8:40'(GMT+7)

Phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại

Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Ngọc Đông (Ảnh: Thu Hằng)

Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Ngọc Đông (Ảnh: Thu Hằng)

Bên lề Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đồng chí Nguyễn Ngọc Đông, Thứ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải đã trao đổi với phóng viên báo chí về những kết quả, những thách thức và những định hướng sắp tới trong phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông khẳng định, từ những kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần trước và nhất là Đại hội lần thứ XI, đã xác định những chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020, đã xác định, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là một trong ba đột phá của đất nước ta, đặc biệt, là kết cấu hạ tầng giao thông.

Từ định hướng lớn của Đảng, Nhà nước, ngành giao thông vận tải đã điều chỉnh các chiến lược quy hoạch chuyên ngành về phát triển giao thông vận tải nói chung, trong đó có kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng. Các giai đoạn từ 2011-2014, tất cả chiến lược phát triển giao thông vận tải và các quy hoạch chuyên ngành của 5 lĩnh vực: đường bộ, đường sắt, đường  hàng không, đường thủy nội địa và hàng hải đều điều chỉnh để phản ánh đúng chủ trường, đường lối của Đảng và Nhà nước là tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông. Ngành đã xây dựng các chương trình cụ thể, xác định dự án thông qua các thứ tự ưu tiên, triển khai đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của tất cả các vùng miền trong giai đoạn vừa qua. Kết quả đạt được đã được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và nhân dân ghi nhận.

Về đường bộ, đã đưa vào khai thác toàn tuyến đường Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên sớm hơn 1,5 năm; hoàn thành mở rộng QL1 từ Thanh Hóa đến Cần Thơ sớm hơn 1 năm; đây là 02 trục giao thông quan trọng nhất, có tác động lớn đến phát triển kinh tế đất nước, kết nối các khu vực tăng trưởng, các đầu mối giao thông đối ngoại trọng yếu.  Các tuyến quốc lộ hướng tâm quan trọng khu vực phía Bắc (QL5, QL2, QL32, QL6, QL18); các đường vành đai biên giới (QL4, QL279, QL37); các tuyến quốc lộ quan trọng khu vực miền Trung, Tây Nguyên (QL7, QL8, QL19, QL24, QL25, QL27, QL20, QL15...), khu vực miền Nam (tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp, Nam Sông Hậu, QL80 Mỹ Thuận - Vàm Cống, QL53, QL54...); nhiều công trình lớn (cầu Nhật Tân, Vĩnh Thịnh, Cổ Chiên, Mỹ Lợi, Hạc Trì, Đầm Cùng, Năm Căn, Cái Tắt, An Hữu, Rạch Sỏi...) đã được ưu tiên đầu tư xây dựng.

Về đường sắt, tiếp tục nâng cao chất lượng cầu, hầm, đường sắt; hệ thống thông tin - tín hiệu; chất lượng phương tiện đầu máy - toa xe. Kết quả đã nâng tốc độ bình quân chạy tầu tuyến đường sắt thống nhất từ 60 km/h lên 77 km/h, tuyến Hà Nội - Lào Cai từ 45 km/h lên 56 km/h. Cải thiện cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ phục vụ hành khách (như triển khai hệ thống bán vé tàu điện tử, xây dựng cầu vượt cho người đi bộ trong nhà ga, lắp đặt mái che, cải tạo trang thiết bị vệ sinh toa xe; nâng cao chất lượng bữa ăn) và cải thiện an toàn giao thông đường ngang...

Về đường thuỷ nội địa, các tuyến đường thủy chính đã được đầu tư nâng cấp để đến năm 2015-2016 vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ có 1.100 km đường thủy, vùng đồng bằng Bắc Bộ có gần 500 km đường thủy được nâng cao năng lực vận tải. Hiện đang tiếp tục kêu gọi đầu tư nâng cấp các tuyến đường thủy quan trọng khác.

Về hàng hải, hoàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải và nhiều cảng khác, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn năm 2011 lên khoảng 470 triệu tấn năm 2015, tăng khoảng 50 triệu tấn so với năm 2011. Đặc biệt đã triển khai tuyến vận tải ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và kết nối khu vực của phương thức vận tải thủy, giảm giá thành vận tải và giảm tải đáng kể áp lực cho vận tải đường bộ bắc - nam.

Về hàng không, hoàn thành, đưa vào khai thác nhiều công trình tại các cảng hàng không quan trọng, như Nội Bài (nhà ga T2, nhà khách VIP), Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cần Thơ, Vinh, Phú Quốc, Liên Khương, Pleiku, Thọ Xuân...; các công trình quản lý hoạt động bay: Trung tâm kiểm soát đường dài Hà Nội, các trạm giám sát hoạt động bay ở phía Bắc, các trạm radar Sơn Trà, Quy Nhơn... đưa tổng năng lực của các cảng hàng không từ 42 triệu hành khách năm 2010, lên khoảng 70 triệu hành khách năm 2015, đáp ứng kịp thời nhu cầu vận tải hàng không đang tăng rất nhanh thời gian qua. Mở mới 38 đường bay (23 quốc tế, 15 nội địa), đưa tổng số đường bay từ 105 năm 2011 (72 quốc tế, 33 nội địa) lên 143 năm 2015 (95 quốc tế, 48 nội địa). Đến nay đã có 52 hãng quốc tế thuộc 24 quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia khai thác đi/đến Việt Nam.

Giao thông đô thị đã tập trung đầu tư các trục giao thông hướng tâm, các đường vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên là vành đai 3, 4 Hà Nội, vành đai 2,3 thành phố Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu giao thông nội đô, giao thông quá cảnh qua 2 thành phố này được nhanh chóng, thuận tiện, an toàn. Đồng thời, đang phối hợp với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai 06 dự án đường sắt đô thị.

Giao thông nông thôn (GTNT), đã tiến hành xây dựng mới, nâng cấp gần 50.000 km đường GTNT; xây mới gần 15.500 cầu; cứng hóa được hơn 220.000 km đường GTNT. Đồng thời, chủ động phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; đến hết năm 2015 có 35% số xã trong cả nước đạt tiêu chí về giao thông trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông cũng nhấn mạnh những thách thực hiện nay của  ngành giao thông vận tải: huy động nguồn lực thế nào để phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chi phí vận tải ở nước ta đang ở mức cao so với khu vực và thế giới, kết nối đồng bộ giữa các phương thức vận tải chưa tốt, tổ chức vận tải chưa ứng dụng được khoa học công nghệ, nguồn lực con người trong lĩnh vực giao thông còn hạn chế, khoa học công nghệ đã được ứng dụng nhưng chưa được mạnh mẽ, tai nạn giao thông còn diễn ra phức tạp.

Về định hướng phát triển trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông nhấn mạnh, phát triển cơ cấu hạ tầng đi thẳng vào hiện đại, đúng như tinh thần đã nêu trong dự thảo Nghị quyết Đại  hội XII là tập trung vào các công trình lớn, có sức lan tỏa ở các vùng kinh tế trọng điểm và tăng tính liên thông; huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước.

Cụ thể, từ nay đến năm 2020, hàng không, tập trung xây dựng sân bay Long Thành, đảm bảo  nhu cầu tăng trưởng nhanh của ngành hàng không. Tiến tới, xây dựng thêm các đường băng của các sân bay có tính kết nối quốc tế lớn như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Cam Ranh, Đà Nẵng. Trong lĩnh vực đường sắt, cần hiện đại hóa đường sắt Bắc – Nam, nghiên cứu để bắt đầu xây dựng đường sắt tốc độ cao trong tương lai. Tập trung vào khu vực cảng biển có tính chất kết nối lớn như Lạch Huyện, Vân Phong. Hoàn thiện các tuyến cao tốc, ưu tiên trục đường Bắc – Nam, các tuyến kết nối với quốc tế.

Để thực hiện các định hướng trên, Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông cũng đề xuất một số giải pháp, đó là:

Thứ nhất, huy động các nguồn lực và kết hợp mọi nguồn vốn trong – ngoài nước trong lúc nguồn lực nội tại của chúng ta đang còn hạn chế.

Thứ hai, trong việc tổ chức thực hiện, nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ quản, của chính quyền địa phương trong giải phóng mặt bằng… trong việc góp phần hoàn thiện các dự án giao thông đưa vào khai thác.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và đặc biệt ứng dụng vật liệu mới, công nghệ mới trong xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông.

Thứ tư, tổ chức quản lý và khai các công trình giao thông hiệu quả, luôn nghĩ đến việc kết nối các phương thức vận tải để giảm chi phí vận tải, đóng góp nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Thu Hằng

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất