TỔNG QUẢN VỀ HÀNG HÓA XANH
Thuật ngữ hàng hóa xanh lần đầu tiên được Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đưa ra năm 1995. Theo đó, “Hàng
hóa xanh là hàng hóa ít gây hại cho môi trường hơn ở một số giai đoạn
trong vòng đời hàng hóa hơn các hàng hóa truyền thống; hoặc là các hàng
hóa có những đóng góp trong việc bảo tồn môi trường”(1). Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) quan niệm, “Hàng
hóa xanh là hàng hóa mà quá trình sản xuất ra chúng ngăn chặn, hạn chế,
tối thiểu hóa hoặc không gây ra sự hủy hoại môi trường đối với các
thành phần môi trường như nước, không khí, đất cũng như các khía cạnh
khác liên quan như nước thải, tiếng ồn và hệ sinh thái”(2).
Một số quốc gia trên thế giới đã sử dụng “nhãn xanh” hay “nhãn sinh thái” để gắn cho các loại hàng hóa xanh
nhằm phân biệt với các hàng hóa thông thường cùng loại, như nhãn sinh
thái Blue Angel do Đức triển khai áp dụng từ năm 1978; nhãn EU Eolabel
do Liên minh châu Âu (EU) triển khai áp dụng từ năm 1990; nhãn Eco Mark
do Nhật Bản triển khai áp dụng từ năm 1989; nhãn KOECO do Hàn Quốc triển
khai áp dụng từ năm 1992; nhãn Green Singapore do Xin-ga-po triển khai
áp dụng từ năm 1992...; đến năm 2014, có khoảng 44.051 hàng hóa được dán
nhãn sinh thái EU Ecolabel, 10.000 hàng hóa được dán nhãn sinh thái
Blue Angel, 9.800 hàng hóa được dán nhãn sinh thái KOECO(3),...
Như vậy có thể quan niệm, hàng
hóa xanh là hàng hóa mà quá trình sản xuất, tiêu thụ và thải bỏ không
ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường (hoặc nếu có thì cũng nhẹ hơn so
với tác động tới môi trường của các hàng hóa tương tự cùng loại) hay còn được gọi là hàng hóa được dán nhãn hàng hóa xanh; hàng hóa tiết kiệm năng lượng; hàng hóa được sản xuất theo cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism - CDM).
Nhìn
chung, ít có hàng hóa nào được xem là xanh, thân thiện với môi trường
một cách tuyệt đối mà trên thực tế, chỉ tồn tại những hàng hóa xanh một
cách tương đối. Một hàng hóa chỉ được coi là hoàn toàn xanh hay thân thiện với môi trường
khi và chỉ khi đáp ứng được tất cả tiêu chuẩn về tính thân thiện với
môi trường từ giai đoạn sản xuất (bao gồm nguyên, vật liệu, máy móc,
thiết bị, công nghệ sản xuất) cho tới giai đoạn đưa vào tiêu dùng, sử
dụng và cuối cùng là giai đoạn thải bỏ sau khi sử dụng. Các tiêu chuẩn
để đánh giá tính thân thiện khác nhau ở các quốc gia, vùng lãnh thổ, khu
vực trên thế giới. Cho nên, khái niệm hàng hóa xanh, thân thiện với môi
trường luôn mang tính chất tương đối. Đặc tính của một loại hàng hóa
xanh biểu hiện bằng các đặc trưng, như sử dụng nguyên liệu; công nghệ; bao bì xanh/thân thiện với môi trường.
Các
tiêu chí hàng hóa xanh, thân thiện với môi trường được EU quy định: 1) Có nguồn gốc bền vững (các thành phần của hàng hóa được khai thác theo
cách bền vững từ nguồn tài nguyên rừng nhiệt đới, có khả năng thích ứng
với các điều kiện của môi trường); 2) Áp dụng công nghệ sản xuất thân
thiện với môi trường; 3) Có hệ thống chế biến, xử lý phù hợp (quy mô phù
hợp và tiết kiệm được năng lượng); 4) Không gây ảnh hưởng đến sức khỏe
(không có hợp chất gây ung thư và dễ sử dụng, an toàn cho công nhân khi
sản xuất); 5) Hàng hóa sau khi sử dụng có thể tái sử dụng hay tự phân
hủy.
Một
số tiêu chí được Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) quy định
phải thỏa mãn, đó là: 1) Nguyên liệu hoặc một phần thành phần nguyên
liệu sử dụng trong sản xuất hàng hóa có đóng góp vào việc giảm thiểu tác
động môi trường; 2) Khí nhà kính phát ra từ kết quả sử dụng hàng hóa
không gây ra tác động môi trường trên diện rộng; 3) Toàn bộ hoặc một
phần hàng hóa có thể tái chế hoặc tái sử dụng, do đó, hạn chế được chất
thải tạo ra.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA XANH Ở VIỆT NAM
Phát
triển thị trường hàng hóa xanh là tập hợp các hoạt động của Nhà nước và
doanh nghiệp nhằm tạo ra sự chuyển biến cả về số lượng, chất lượng của
nguồn cung hàng hóa xanh, khách hàng tiêu dùng và hoàn thiện hệ thống
phân phối để gia tăng việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa xanh, góp phần
đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững.
Phát
triển thị trường hàng hóa xanh theo chiều rộng là gia tăng nguồn cung,
mở rộng phạm vi địa lý thông qua việc gia tăng mạng lưới các cơ sở bán
lẻ, gia tăng số lượng người tiêu dùng thông qua việc vận động mua sắm,
tiêu dùng hàng hóa xanh. Về thực chất, đây là quá trình phát triển thị
trường về số lượng. Phát triển thị trường hàng hóa xanh theo chiều sâu
là việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành hàng hóa xanh. Để đưa hàng
hóa xanh đến tay người tiêu dùng với chất lượng bảo đảm, giá cả hợp lý,
doanh nghiệp cần hoàn thiện các kênh phân phối. Để phát triển thị
trường hàng hóa xanh, doanh nghiệp cần phát triển các yếu tố tạo nên thị
trường, như phát triển cung (nguồn hàng), phát triển cầu (tiêu dùng),
phát triển hệ thống phân phối, và Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách
phát triển thị trường.
Nguồn cung hàng hóa.
Theo
thống kê, khối lượng và chủng loại hàng hóa xanh, thân thiện với môi
trường có mặt trên thị trường ngày càng phong phú, chất lượng từng bước
được nâng cao. Danh mục hàng hóa xuất hiện ngày càng nhiều hơn ở các
siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng mua sắm. Người tiêu dùng ở các
đô thị lớn, đặc biệt là nhóm tiêu dùng có thu nhập cao đã quan tâm, chú
trọng sử dụng nhiều hơn các loại hàng hóa xanh. Một số chủng loại, mặt
hàng đã tìm được đầu ra ở thị trường ngoài nước. Tuy nhiên, so với nhiều
nước trong khu vực, việc phát triển nguồn cung hàng hóa xanh ở nước ta
vẫn còn khá hạn chế. Số lượng hàng hóa xanh đạt tiêu chuẩn thân thiện
với môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế vẫn còn ít, tập trung vào một
số hàng hóa nhất định. Sự “khiếm khuyết” của thị trường thể hiện trên
các mặt sau:
Một là,
năng lực sản xuất còn hạn chế. Theo khảo sát năm 2018 cho thấy, chỉ có
gần 50% doanh nghiệp cho biết lý do đầu tư sản xuất hàng hóa xanh là để
bảo vệ môi trường; 23,3% doanh nghiệp cho biết lý do đầu tư sản xuất,
kinh doanh hàng hóa xanh là để tiết kiệm năng lượng; có tới 89% doanh
nghiệp trả lời là không nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước trong
quá trình sản xuất, kinh doanh sản phẩm xanh; chỉ có 36% doanh nghiệp
cho biết là nhận được sự ủng hộ của các nhà phân phối đối với hàng hóa
xanh(4).
Hai là,
số lượng mặt hàng được dán nhãn xanh Việt Nam còn rất hạn chế. Một số
hàng hóa xuất hiện trên thị trường mới chỉ ở cấp độ thấp. Trong khi đó,
để phát triển sản xuất các loại hàng hóa xanh, các doanh nghiệp thường
phải đối mặt với những khoản đầu tư lớn liên quan tới nguyên liệu, đổi
mới công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất hoặc thay thế nguyên liệu đầu
vào, quảng cáo, truyền thông,... Đây sẽ là những rào cản lớn đối với
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xanh trong bối cảnh hiện nay.
Theo
khảo sát của Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia,
có một số nguyên nhân chủ yếu khiến doanh nghiệp không đầu tư vào việc
đổi mới công nghệ sản xuất hàng hóa xanh, thân thiện với môi trường.
Ba là,
chủng loại hàng hóa có nguồn gốc, xuất xứ từ nước ngoài vẫn chiếm ưu
thế. Hầu hết các loại hàng hóa xanh sử dụng dài ngày trên thị trường chủ
yếu được nhập khẩu từ nước ngoài hoặc nhập khẩu linh kiện và gia công,
lắp ráp tại Việt Nam.
Bốn là,
hiện nay, việc áp dụng các công cụ kinh tế trong việc thúc đẩy sản xuất
và tiêu dùng xanh chưa đủ mạnh. Đây cũng chính là một trong những hạn
chế cần được khắc phục để hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh nói chung
cũng như thúc đẩy thị trường hàng hóa xanh ở nước ta nói riêng.
Cầu hàng hóa (tiêu dùng)
Chi
phí để sản xuất một đơn vị hàng hóa xanh thường lớn hơn nhiều so với
loại hàng hóa tương tự nên giá thành cao (mức giá trung bình của các
hàng hóa xanh thường cao hơn 20 - 40% so với các loại hàng hóa tiêu dùng
cùng loại). Do vậy, khả năng hàng hóa xanh cạnh tranh trên thị trường
thấp. Sự phàn nàn của khách hàng đối với chất lượng hàng hóa không đúng
như cam kết của nhà sản xuất cũng góp phần làm giảm lòng tin với các
loại hàng hóa lưu thông trên thị trường.
Bên
cạnh đó, hiện nay, phần đông người tiêu dùng vẫn quan tâm nhiều đến vấn
đề chất lượng và mẫu mã, giá bán, ít quan tâm đến tính thân thiện với
môi trường của hàng hóa. Các doanh nghiệp đã có nhiều chiến dịch quảng
bá, vận động tiêu dùng, nhưng tốc độ cầu hàng hóa xanh tăng chậm. Thời
gian qua, mua sắm hàng hóa xanh thường mới hướng vào hàng hóa được dán
nhãn tiết kiệm năng lượng, nông sản hữu cơ,... Theo kết quả trưng cầu
của Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao thực hiện với 16.715
người tiêu dùng tham gia bình chọn trực tuyến và trực tiếp, tại 1.764
điểm bán ở 4 thành phố (Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ)
cho thấy: Đối với nhóm ngành thực phẩm, đồ uống, 55% người tiêu dùng
lựa chọn yếu tố sản phẩm bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm là hàng đầu;
tương tự, nhóm ngành hóa, mỹ phẩm, sản phẩm bảo đảm vệ sinh, an toàn sử
dụng cũng được 66% người tiêu dùng chọn. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy, 43% số người được khảo sát lo ngại việc doanh nghiệp sử dụng chất
cấm trong sản xuất và bảo quản, hay sử dụng nguyên liệu không bảo đảm
chất lượng để sản xuất; có khoảng 1/3 người tiêu dùng lo ngại quy trình
sản xuất không bảo đảm an toàn, vệ sinh hoặc sử dụng chất phụ gia quá hàm lượng cho phép. Đáng chú ý, nỗi lo của người tiêu dùng về hàng giả, hàng nhái chiếm vị trí số 1(5).
Khảo
sát của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và Môi trường (ISPONRE)
đối với người tiêu dùng tại 12 tỉnh, thành phố cho thấy, có 63% số người
được hỏi hiểu được tác dụng của việc tiêu dùng hàng hóa xanh; 71,8%
người được hỏi đã nghe nói tới, nhưng không biết rõ về hàng hóa xanh.
Tuy nhiên, mức độ sẵn lòng chi trả không cao, chỉ có 10% sẵn sàng mua,
37% cho rằng giá cả của hàng hóa xanh đắt hơn so với các hàng hóa cùng
loại.
Thói
quen và thu nhập là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến quyết
định sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng. Sử dụng hàng hóa xanh được
hầu hết các nhóm khách hàng lựa chọn. Tuy nhiên, đối với các hàng hóa
được dán nhãn xanh, sinh thái thì người tiêu dùng có thu nhập cao (trên
11 triệu đồng/tháng) chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Hệ thống phân phối.
Các
kênh, hình thức phân phối hàng hóa xanh chưa phát triển. Theo đánh giá
của các nhà quản trị, so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng, tỷ trọng lưu chuyển hàng hóa xanh tiêu thụ qua hệ thống
chợ chiếm bình quân 0,5%; thông qua mạng lưới các cửa hàng truyền thống
khoảng 3%. Các siêu thị, trung tâm thương mại chiếm ưu thế, tương ứng
13% và 9%. Các cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh chiếm khoảng 3,5 đến
5,5%. Ngoài các hình thức trên, một số hình thức tiêu thụ khác, như mua
trực tiếp từ cơ sở sản xuất, dưới dạng hàng xách tay, nhưng khối lượng
không lớn, chỉ chiếm khoảng 1%(6).
Các chính sách, biện pháp phát triển thị trường.
Thông
qua các đạo luật, chiến lược, chương trình và dự án, nhiều hoạt động hỗ
trợ phát triển hàng hóa xanh đã được triển khai hiệu quả, như khuyến
khích, hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp,
thúc đẩy đổi mới, áp dụng công nghệ xanh, thân thiện với môi trường,
thực hiện chứng nhận, dán nhãn xanh Việt Nam, nhãn năng lượng, tăng
cường tái chế, tái sử dụng, tuần hoàn chất thải, hạn chế việc sử dụng
bao bì khó phân hủy và thay thế bằng bao bì thân thiện môi trường, từng
bước hình thành những thói quen tiêu dùng bền vững,...
Song
song với đó, Chương trình nhãn xanh Việt Nam cũng đã cấp chứng nhận
nhãn xanh Việt Nam cho 53 hàng hóa của 5 doanh nghiệp (Công ty trách
nhiệm hữu hạn Procter & Gramble, Công ty Cổ phần Bóng đèn Điện
Quang, Công ty trách nhiệm hữu hạn Sơn Jotun Việt Nam, Văn phòng đại
diện Fuji Xerox Asia Pacific Pte Ltd, Công ty trách nhiệm hữu hạn Sơn
Jotun Việt Nam). Qua đó, Chương trình góp phần tạo ra sự minh bạch về
hiệu suất năng lượng giữa các thương hiệu, với 13 chủng loại sản phẩm và
6.215 mã sản phẩm được dán nhãn.
Ngoài ra, Chương
trình sản xuất sạch hơn trong công nghiệp góp phần hình thành và phát
triển mạng lưới các đơn vị đầu mối. Thời gian qua, 36 tỉnh, thành phố có
đơn vị đầu mối về sản xuất sạch hơn. Chương trình hỗ trợ xây dựng 60 mô
hình sản xuất sạch hơn. Hay, việc sử dụng bao bì, túi đựng nhiều lần đã
được triển khai thực hiện tại một số siêu thị lớn tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, còn trong phạm vi hẹp.
Mặc
dù thị trường hàng hóa xanh ở nước ta có những bước phát triển đáng ghi
nhận, song, sự phát triển này vẫn còn gặp phải những trở ngại nhất
định: Hàng hóa xanh có giá cao trong khi mức thu nhập của người dân Việt
Nam còn ở mức trung bình và thấp, khó cạnh tranh với các hàng hóa cùng
loại. Các chính sách phát triển hàng hóa xanh chưa tạo động lực mạnh mẽ
cho các doanh nghiệp. Nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước để
hỗ trợ đầu tư, đổi mới công nghệ nhằm sản xuất hàng hóa xanh còn ít, mức
độ hỗ trợ thấp. Chính sách hỗ trợ chưa tạo ra được sự chuyển biến đáng
kể để doanh nghiệp đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất. Bên cạnh đó,
một mặt, chưa khơi dậy được nguồn vốn đầu tư từ xã hội, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng đầu tư cho các dự án đổi mới công nghệ; mặt khác,
chỉ có hàng hóa được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam mới được hưởng các
hỗ trợ, ưu đãi, vì thế, chưa thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất.
Các
chính sách hướng đến phát triển tiêu dùng xanh còn thiếu đồng bộ. Chẳng
hạn, chính sách “Mua sắm công bền vững” đối với các đơn vị sử dụng ngân
sách, mặc dù có quy định, nhưng chậm thực thi do thiếu danh mục, tiêu
chuẩn chất lượng của các hàng hóa thuộc danh mục mua sắm. Hơn nữa, ít có
chính sách hướng tới phát triển mua sắm công xanh trong ngắn hạn và dài
hạn.
Việc
lồng ghép nội dung phát triển tiêu dùng xanh trong các chính sách chưa
tạo ra động lực khuyến khích, phát triển nhu cầu tiêu dùng xanh. Các
chính sách hiện có chủ yếu vẫn hướng vào phát triển nguồn cung, tuyên
truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức, chưa có chính sách kích cầu đủ
mạnh đối với người tiêu dùng cũng như thuận lợi hóa quá trình lưu
thông. Việc thay đổi thói quen, nâng cao nhu cầu tiêu dùng (phát triển
kênh phân phối bán buôn, bán lẻ, quảng bá và xây dựng thương hiệu sản
phẩm,...) chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm.
Trong
những năm gần đây, nhiều hoạt động khởi nghiệp đã xuất hiện trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên, các sáng kiến khởi nghiệp trong lĩnh vực môi trường
còn manh mún, thâm nhập thị trường của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Bên
cạnh đó, nhận thức của người tiêu dùng về hàng hóa xanh còn hạn chế.
Người tiêu dùng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn vẫn chưa có nhận thức
đầy đủ về hàng hóa xanh và vấn đề bảo vệ môi trường khi tiêu dùng hàng
hóa. Chủng loại hàng hóa chưa đa dạng, người tiêu dùng ít có sự lựa
chọn, chưa được đầu tư dài hạn ở quy mô và phạm vi lớn.
Không
những thế, các doanh nghiệp Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn trong việc
đáp ứng các quy định tiêu chuẩn của các quốc gia và tổ chức quốc tế về
phương pháp sản xuất, chế biến, bảo đảm các tiêu chuẩn môi trường, kiểm
dịch động, thực vật, yêu cầu về bao bì đóng gói, sử dụng vật tư, năng
lượng không gây hại môi trường... Ngoài ra, chuyển đổi sang sản xuất
xanh, xuất khẩu xanh, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và công nghệ cao mà không
phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực và đáp ứng được.
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA XANH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Hiện
nay, các nước phát triển ngày càng quan tâm đến phát triển bền vững,
chống biến đổi khí hậu và đề ra những tiêu chuẩn, quy định mới liên quan
đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu sạch, lao động, môi trường đối với các
sản phẩm nhập khẩu, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Một số quốc gia
dự kiến áp đặt thêm các quy định cho hàng hóa nhập khẩu, như thu phí
các-bon, yêu cầu về hàm lượng tái chế đối với hàng nhập khẩu,... Theo
thống kê của Bộ Công Thương, tính đến hết năm 2022, các nước trên thế
giới đã tiến hành điều tra 225 vụ, việc phòng vệ thương mại đối với các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Xây
dựng, phát triển thương hiệu xanh không chỉ còn là đạo đức doanh
nghiệp, mà đã trở thành “luật chơi” mới. Tại Hội nghị Thượng đỉnh về
biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Thủ tướng Chính phủ
Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết Việt Nam đưa mức phát thải ròng bằng 0
vào năm 2050. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường hàng hóa
xanh ở Việt Nam, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Một là, về cơ chế, chính sách vĩ mô.
Nhà
nước cần xác định các ngành, lĩnh vực trọng tâm có khả năng phát triển,
trước hết, cần tập trung vào các hàng hóa mà hiện nay Việt Nam có thế
mạnh, như nhóm hàng hóa có khả năng thay đổi đầu vào là tài nguyên thiên
nhiên bằng các nguồn đầu vào tái tạo hay thân thiện khí hậu (ngành tái
chế); nhóm các hàng hóa có khả năng áp dụng sản xuất sinh thái (rau, quả
an toàn, hữu cơ...); nhóm hàng hóa năng lượng thay thế (năng lượng tái
tạo và nhiên liệu sinh học).
Các
doanh nghiệp theo đuổi chiến lược xuất khẩu xanh với mục đích xanh hóa
sản phẩm sẽ giúp khách hàng trên thị trường nước ngoài có thiện cảm hơn
với sản phẩm của doanh nghiệp, tạo nên lợi thế cạnh tranh. Nhà nước cần
có chính sách ưu đãi đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp đang sử
dụng công nghệ lạc hậu đầu tư chuyển đổi công nghệ, đáp ứng tiêu chuẩn
nền kinh tế xanh; định ra một thời hạn buộc các doanh nghiệp thực hiện.
Bên
cạnh đó, hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia cần được xây dựng, phát
triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung, tương tự như mô hình
Cổng dịch vụ công quốc gia. Hành lang pháp lý cần cụ thể và chi tiết hơn
để hoạt động xây dựng, ứng dụng được bài bản, thống nhất, phù hợp với
tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam và quốc tế. Các chính sách tài chính
cần góp phần hướng tới tăng trưởng xanh như mục tiêu đã đề ra; cần sử
dụng công cụ thuế, phí để điều tiết và định hướng sản xuất cũng như tiêu
dùng (ưu đãi thuế, phí, nguồn lực cho những công nghệ, quy trình sản
xuất sản phẩm thân thiện môi trường và ngược lại, áp thuế cao với những
công nghệ, quy trình sản xuất lạc hậu, nguy cơ gây ô nhiễm).
Nhà
nước cần tài trợ cho các nghiên cứu đánh giá tác động chính sách; bổ
sung phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; có chính sách trợ cấp cho
hoạt động công nghệ xanh, lấy nguồn thu từ nguồn phát thải; công bố danh
sách doanh nghiệp gây ô nhiễm quốc gia, vùng, địa phương,...
Để
hướng FDI vào kinh tế xanh, cần kiên quyết dừng tiếp nhận các dự án FDI
mới vào những ngành công nghiệp tiêu hao nhiều năng lượng, gây hiệu ứng
nhà kính, không thân thiện với môi trường.
Dây chuyền sản xuất các sản phẩm cảm biến thông minh, thân thiện với môi trường của Công ty TNHH Hyundai Kefico Việt Nam, vốn đầu tư của Hàn Quốc tại Khu công nghiệp Đại An II, tỉnh Hải Dương. (Ảnh: TTXVN)
Về phía các bộ, ngành:
Cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các hoạt động
của chương trình nhãn xanh Việt Nam, nhất là về nguồn nhân lực và tài
chính. Bộ Công Thương cần rà soát, sửa đổi Luật Thương mại theo hướng bổ
sung quy định về hạ tầng thương mại để làm căn cứ pháp lý cho việc
triển khai các chính sách có liên quan; phối hợp với Liên đoàn Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng hệ thống tiêu chí theo dõi,
đánh giá, báo cáo thực hiện Chương trình hành động quốc gia về sản xuất
và tiêu dùng bền vững.
Bộ
Khoa học và Công nghệ cần đẩy mạnh triển khai Đề án “Thúc đẩy chuyển
giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong
các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm
2030’’ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 27-12-2018, nhằm thúc đẩy việc chuyển giao, làm chủ và phát triển
công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam; làm đầu mối kết nối cung - cầu,
giúp các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh rút ngắn quá trình tìm hiểu
thị trường; tổ chức xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về cung, cầu
công nghệ cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư rà soát, lồng ghép các hoạt động sản xuất và tiêu
dùng bền vững vào trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia,
ngành và địa phương. Xây dựng chính sách khuyến khích các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa
xanh, thân thiện với môi trường.
Bộ Tài chính, một mặt,
cần xây dựng danh mục hàng hóa xanh được ưu tiên lựa chọn khi thực hiện
dự án đầu tư, mua sắm công. Bổ sung các quy định về ưu tiên cho hàng
hóa xanh trong các quy định pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa; mặt khác,
phối hợp cùng Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm nghiên
cứu xây dựng và ban hành hệ thống thuế tiêu dùng xanh, khuyến khích sản
xuất, xuất, nhập khẩu các loại hàng hóa xanh. Khi sửa đổi Luật Thuế bảo
vệ môi trường, Bộ Tài chính cần bổ sung quy định nguồn thu thuế bảo vệ
môi trường được quản lý trong chương mục riêng của ngân sách nhà nước và
chỉ dành để đầu tư ngược lại cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Bên
cạnh đó, Bộ Tài chính cần quy định chi tiết các khoản chi cho bảo vệ môi
trường, trong đó bao gồm cả những khoản chi nhằm khuyến khích áp dụng
công nghệ thân thiện môi trường và ưu đãi, hỗ trợ tiêu thụ những hàng
hóa thân thiện với môi trường. Việc ấn định các mức thuế suất cụ thể
trong Luật Thuế bảo vệ môi trường cần dựa trên các căn cứ khoa học nhằm
chứng minh các mức thuế suất này được xác định theo mức độ gây tác động
xấu đến môi trường của hàng hóa. Nghiên cứu kết hợp thuế bảo vệ môi
trường vào hệ thống thuế nhập khẩu.
Bộ
Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu xây dựng và ban hành tiêu chí nhãn
xanh Việt Nam cho các loại hàng tiêu dùng phổ biến, thị trường có nhu
cầu cao.
Hai là, về tạo lập nguồn cung cho thị trường.
Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ với lộ trình cụ thể để các doanh nghiệp
phát triển kinh tế xanh: 1) Tổ chức tốt các kênh thông tin về hàng hóa
xanh; 2) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn để hỗ trợ các doanh
nghiệp, bao gồm phương pháp quản lý, thực hành các kỹ thuật cụ thể, công
nghệ giảm thiểu khí nhà kính...; 3) Chính sách ưu đãi, hỗ trợ không chỉ
dành cho hàng hóa được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam, mà cần mở rộng
cho các dự án sản xuất hàng hóa xanh, thân thiện môi trường ở nhiều cấp
độ khác nhau.
Bên
cạnh đó, Nhà nước cần có quy định chi tiết về mức ưu đãi, hỗ trợ mà các
đối tượng được hưởng và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc
giải quyết cho các dự án được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ. Theo đó, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
có chỉ số môi trường tốt được vay vốn, mở rộng sản xuất, kinh doanh,
thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch. Triển khai thực thi hiệu quả Nghị quyết
số 136/NQ-CP, ngày 25/9/2020 của Chính phủ về "Phát triển bền vững”;
Quyết định số 681/QĐ-TTg, ngày 4/6/2019 của Thủ tướng Chính phủ về
việc "Ban hành lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt
Nam đến năm 2030”; Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình
nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (ban hành kèm theo Quyết định số
622/QĐ-TTg, ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ). Với những doanh
nghiệp đã được thông qua phương án đổi mới công nghệ, sản xuất xanh, nếu
vay vốn ngân hàng cần được hỗ trợ từ 50 đến 100% chi phí chi trả lãi
suất ngân hàng. Nguồn chi lấy từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hoặc Quỹ
Phát triển khoa học và công nghệ địa phương, tùy theo quy mô và tính
chất của dự án.
Dành
một phần thích hợp từ Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ Ủy thác tín dụng
xanh,... để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ hoặc các dự án
đầu tư mới, các dự án áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng. Xây dựng
Quy định cơ chế hỗ trợ về giá, quảng cáo, xúc tiến thương mại đối với
các hàng hóa được sản xuất từ các công nghệ xanh.
Các
doanh nghiệp cần thực hiện các chương trình đào tạo mới, đào tạo lại,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ tin học, ngoại
ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp các tình huống kinh doanh... Phối hợp
chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các nhà khoa học, các viện nghiên cứu,
hiệp hội, với đối tác ngay tại nước nhập khẩu.
Ba là, phát triển hệ thống phân phối.
Tăng
cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước, kể cả mua
bán, sát nhập để tạo sức mạnh tài chính đổi mới công nghệ, phát triển hệ
thống xây dựng thương hiệu; liên kết giữa nhà sản xuất với nhà phân
phối để ổn định nguồn hàng và thị trường tiêu thụ. Bộ Công Thương nghiên
cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật (dưới dạng thông tư) quy định
các cơ sở bán lẻ của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam phải dành một
diện tích (khu vực) nhất định cho việc quảng bá, giới thiệu hàng hóa sản
xuất tại Việt Nam. Về nguồn cung ứng, tỷ lệ hàng hóa sản xuất trong
nước không dưới 55% trong tổng số danh mục hàng hóa được tiêu thụ qua
mạng lưới của mình.
Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tăng cường hỗ trợ nông dân kết nối,
tiếp cận với dịch vụ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kết nối với các
doanh nghiệp chế biến, hệ thống tiêu thụ hàng hóa, qua đó, từng bước
hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng kết nối sản xuất, chế biến,
phân phối và bán hàng hóa.
Bốn là, khuyến khích tiêu dùng
Chính
phủ, cộng đồng doanh nghiệp và người dân cần thực hiện tốt Cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Hiệp hội bán lẻ và
siêu thị, Hội Bảo vệ người tiêu dùng làm đầu mối vận động các đơn vị hội
viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm thương mại và
siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại chân thực.
Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hóa có mức phát thải cao.
Miễn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa có mức phát thải thấp.
Các
tỉnh, thành phố cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm
nâng cao nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh
đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng. Tham khảo kinh nghiệm các quốc
gia khác trên thế giới để thực hiện trước một số chính sách cần thiết và
khả thi, như chính sách mua sắm xanh trong lĩnh vực công; quy hoạch
hoạt động tái chế; hình thức xử lý với các nhà phân phối có hành vi vi
phạm,... Xây dựng hệ thống thông tin công khai liên quan đến pháp luật,
tiêu chuẩn, thủ tục tố tụng hành chính, công nghệ và hàng hóa; ứng dụng
thẻ tín dụng xanh./.
PGS. TS. VŨ TRỌNG LÂM
Giám đốc-Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
TS. NGUYỄN THANH BÌNH
Học viện Ngân hàng
_________________________
(1) UNCTAD: Báo cáo về phát triển hàng hóa thân thiện môi trường, 1995.
(2) OECD: Phát triển hàng hóa xanh, thân thiện môi trường trong tiến trình công nghiệp, 1995.
(3) UNCTAD: Báo cáo về triển khai nhãn sinh thái ở một số quốc gia, 2016.
(4) (6) Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương: Thực trạng phát triển thị trường hàng hóa thân thiện môi trường, 2018 .
(5)
Xem: Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao: Khảo nghiệm với
người tiêu dùng vè hàng hóa lưu thông trên thị trường, 2019 .
(Nguồn: TC Cộng sản)