NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LỖI, PHẢN ÁNH TƯ DUY ĐỘT PHÁ, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG LÝ LUẬN VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Từ
Đại hội VI (tháng 12/1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều
tìm tòi, đổi mới tư duy phát triển kinh tế nhằm đưa đất nước vượt qua
những khó khăn, khủng khoảng do hậu quả của chiến tranh để lại, những
tác động tiêu cực của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp,
sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự bao vây cấm vận…;
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước trên con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Thực tiễn hơn 36 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta cho phép khẳng định những giá trị cốt lõi, phản ánh tư duy
đột phá, sáng tạo của Đảng trong lý luận về đường lối đổi mới, phát
triển kinh tế, thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo”(1),
mang tính chất nền tảng, then chốt trong lý luận về đường lối đổi mới,
phát triển kinh tế của Đảng ta, bắt nguồn từ những cơ sở lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Đây là thành quả lý luận quan trọng của công cuộc thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội VI của Đảng, sự đúc
kết xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trên thế giới.
Từ
sau khi thống nhất đất nước đến trước Đại hội VI của Đảng, nền kinh tế
nước ta vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp cao độ. Bước vào thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta mới chỉ
quan niệm kinh tế hàng hóa, các thành phần kinh tế có những mặt tích cực
cần được vận dụng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế,
nhận thức lý luận của Đảng về tính tất yếu, bản chất, đặc trưng, cấu
trúc, cơ chế vận hành, mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và cơ chế quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế ngày càng rõ hơn, phù hợp hơn với thực tế trong nước và thông lệ
quốc tế.
Từ
thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ và khẳng định:
Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức tất yếu để xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, là thành tựu phát triển của văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Có
thể khẳng định, đây là đột phá căn bản trong tư duy lý luận của Đảng về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề lý luận cho việc lựa
chọn mô hình phát triển kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhận thức đó là cơ sở để chúng ta áp dụng cơ chế thị
trường vào thực tiễn đời sống kinh tế, thống nhất nhận thức, hình thành
quan niệm và từng bước hoàn thiện lý luận về mô hình kinh tế tổng quát
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo cơ sở cho việc
định hình và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng như xử lý các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường đối nội và đối ngoại của đất nước.
Tại
Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(2) và đó là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”(3).
Có thể thấy, “chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất.”(4), thể hiện sự nhận thức ngày càng sâu sắc và vận
dụng ngày càng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào hoàn cảnh thực tế của đất nước.
Những
tìm tòi, đổi mới đó đã góp phần to lớn để đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo sự thay đổi cơ bản và toàn diện: Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao; sức mạnh tổng
hợp của quốc gia tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho đất nước(5).
Từ thực tiễn đó, Đảng ta tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận: Để đi lên
chủ nghĩa xã hội, phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa(6).
Thành
quả của quá trình đổi mới là căn cứ thực tiễn vững chắc để Đảng ta
khẳng định: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng
đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng
cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh(7).
Qua
thực tiễn đổi mới nền kinh tế, nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiếp tục được hoàn
thiện và cụ thể hóa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, nguyện
vọng của nhân dân. Điều đó đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn
của đất nước không chỉ về mặt kinh tế, mà trên tất cả các mặt khác của
đời sống xã hội: Góp phần giải phóng mạnh mẽ tiềm năng và huy động được
nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho quá trình phát triển kinh tế.
Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, quy mô nền kinh tế
được mở rộng, đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội những năm 1980. Thu nhập bình quân đầu người được nâng cao, mức sống
người dân được cải thiện mạnh mẽ. Đảng và Nhà nước có điều kiện thuận
lợi hơn để giải quyết những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước.
Khoảng cách tụt hậu giữa Việt Nam và một số quốc gia khác được rút ngắn.
Vị thế, tiếng nói, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng
được cải thiện và khẳng định. Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế
giới những năm 1980, thiếu đói thường xuyên, lạc hậu, kém phát triển
(khoảng ¾ dân số sống dưới mức nghèo khổ), chỉ trong vòng một thế hệ,
Việt Nam đã trở thành quốc gia đang phát triển, với thu nhập bình quân
đầu người 3.512 USD vào năm 2020; quy mô GDP không ngừng được mở rộng,
năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD (theo số liệu tính toán lại), trở thành nền
kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN.
Thứ hai, chủ
trương bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính
sách và trong suốt quá trình phát triển.
Trong
suốt tiến trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới
(tính từ thời điểm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến trước
tháng 12/1986), việc giải quyết vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội ở nước
ta còn mang tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, vượt quá khả năng
đáp ứng của nền kinh tế, mang tính bình quân, bao cấp. Điều đó đã triệt
tiêu động lực và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các mục tiêu về
tiến bộ, công bằng xã hội đặt ra lại chậm được hiện thực hóa, thậm chí
có lúc sai lệch.
Trong
tiến trình đổi mới, qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, tìm tòi, nhận
thức của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công
bằng xã hội cũng như mục tiêu, điều kiện, phương thức giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội từng bước
được hoàn thiện, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, với
nguyện vọng của đại bộ phận người dân, thể hiện rõ định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Đảng ta khẳng định, trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phải bảo đảm sự gắn
kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá
trình phát triển. Đây là một đặc trưng cơ bản của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chúng ta “không chờ đến khi
kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để
chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh
tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội
đều phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo đảm
tiến bộ, công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi
với bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có
công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính
nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”(8).
Công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế theo định hướng nêu trên đã đem lại
những thay đổi to lớn, tốt đẹp cho đất nước trên phương diện thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội: Thu nhập của người dân được cải thiện; Tỷ
lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 (theo
chuẩn nghèo theo thu nhập) và dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa
chiều). Đến năm 2020, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các
xã đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu
học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Đời sống văn hóa, tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm nước có HDI cao
trên thế giới và cao hơn so với các nước có cùng trình độ phát triển
kinh tế. Việt Nam được Liên hợp quốc công nhận là một trong những nước
đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Những
thành tựu nêu trên góp phần tạo sự đồng thuận và ổn định chính trị - xã
hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, qua đó
tạo điều kiện thuận lợi và động lực để nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Thứ ba, chủ
trương kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều kiện mới, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phát
triển đất nước.
Từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta đã rút ra bài
học kinh nghiệm quý báu: “Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại trong điều kiện mới”(9) để phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng
định, nhiệm vụ phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước “tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan
trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”(10).
Trên cơ sở đó, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành
viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Chủ
trương trên đã góp phần to lớn đưa Việt Nam từ quốc gia bị bao vây, cấm
vận kinh tế trở thành quốc gia hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế
giới. Đến nay, chúng ta đã khôi phục, mở rộng và thiết lập quan hệ ngoại
giao với tất cả các nước lớn trên thế giới, là thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế quốc tế quan trọng, tham gia tích cực, có trách nhiệm vào
đời sống quốc tế. Hiện Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước
thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước lớn,
quan hệ đối tác hợp tác toàn diện với nhiều nước khác; đã ký kết 15
hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương..., qua đó góp phần tạo dựng hình ảnh, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi vì lợi ích phát triển của đất nước.
Điều
đó đã tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng quan
hệ đầu tư, thương mại với các nước, phát huy tiềm năng, lợi thế của đất
nước để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã
hội nói chung: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh, năm 2020 đạt
trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự
trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020(11). Đầu tư trực
tiếp nước ngoài tăng nhanh, tính đến ngày 31/12/2021, Việt Nam đã thu
hút được 408 tỷ USD vốn đăng ký, đứng thứ 18 trên thế giới và thứ 2 Đông
Nam Á,...
Những
đột phá trong lý luận về đường lối đổi mới, phát triển kinh tế nêu trên
đã góp phần làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ BỔ SUNG, HOÀN THIỆN TRONG LÝ LUẬN VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Sau
hơn 36 năm thực hiện đường lối đổi mới, bên cạnh những thành tựu to
lớn, nền kinh tế Việt Nam vẫn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém, đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao,
nhưng chưa đạt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đề ra,
chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, thiếu
bền vững; nền kinh tế ở thời điểm hiện tại vẫn tụt hậu so với nhiều nền
kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới.
Đến
nay, chúng ta vẫn chưa trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo còn nhỏ bé, có giá trị gia tăng
thấp hoặc phụ thuộc vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu(12).
Việt Nam vẫn chưa có ngành công nghiệp quốc gia có thể đảm đương vai
trò trụ đỡ của nền kinh tế, đồng thời giúp khẳng định vị thế của đất
nước trong quan hệ với các đối tác kinh tế khác. Nội lực của nền kinh tế
còn yếu(13), năng lực độc lập, tự chủ, khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc từ bên ngoài còn thấp.
Khu
vực kinh tế trong nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, còn nhiều
hạn chế (đã gia tăng về số lượng, nhưng quy mô và tiềm lực không mạnh):
Xét trên phương diện quan hệ sở hữu, kinh tế nhà nước đóng góp khoảng
27% tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam, kinh tế tập thể, kinh tế hộ,
kinh tế tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp
tương ứng 4%, 30%, 10% và 20%(14).
Dây chuyền sản xuất, lắp ráp các linh kiện đo lường nhiệt độ tại Công ty TNHH Sankoh Việt Nam - doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Nhật Bản tại Khu công nghiệp Bờ trái Sông Đà, tỉnh Hòa Bình. (Ảnh: TTXVN
Việt
Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
nhưng chúng ta đang tham gia ở những công đoạn có giá trị gia tăng thấp
và dễ dàng bị thay thế bởi các quốc gia khác khi những yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định đầu tư (giá năng lượng, chi phí thuê đất, giá nhân công,
thuế, phí...) không còn đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Chúng ta thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài(15) và
đã thu được những kết quả nhất định trên các phương diện tạo việc làm,
cải thiện đời sống người dân, gia tăng giá trị xuất khẩu, thúc đẩy việc
cải thiện quản lý nhà nước về kinh tế và hoạt động của nền kinh tế nói
chung, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu Việt Nam trên trường quốc
tế, cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước, góp phần giữ gìn
hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước..., qua đó tạo thuận lợi
cho sự nghiệp phát triển kinh tế cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội nói chung. Tuy nhiên, tác động lan tỏa của khu vực này đến nền
kinh tế không đạt được như kỳ vọng. Đặc biệt, một số chỉ số kinh tế vĩ
mô phụ thuộc chặt chẽ vào khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
như cán cân thương mại...
Phân
hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng, đời sống của một bộ phận người dân
còn khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng bị
thiên tai; chênh lệch phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn khá
lớn.
Thực trạng đó đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, mà về mặt lý luận, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần
phân định rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế, thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ”.
Phương
châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã được Đảng,
Nhà nước ta triển khai thực hiện khá sớm trong đời sống xã hội, trong đó
có lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, để thực sự phát huy hiệu quả, trước
hết, cần phân định rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối
với nền kinh tế. Theo đó, cần phân định rõ phạm vi, thẩm quyền, trách
nhiệm lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo
đảm tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước nhưng
không để xảy ra tình trạng Đảng làm thay Nhà nước, mà tạo điều kiện để
phát huy tính chủ động, năng động và nâng cao hiệu quả quản lý, điều
hành nền kinh tế của Nhà nước. Cùng với điều đó, cần bảo đảm sự công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình gắn với trách nhiệm người đứng
đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế, bảo đảm sự tham gia của người dân và phản biện xã hội trong các
khâu của những công tác này.
Thứ
hai, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, đặc biệt
là cấp chiến lược, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong tình hình
mới.
Công
tác cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng, công tác cán bộ là khâu “then chốt của then chốt”.
Trong thời gian qua, Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết liên quan để giải
quyết những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả của
công tác này, cần tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, tăng cường sự tham gia của người dân trong các khâu
của công tác cán bộ. Đồng thời với điều đó, cần chú trọng giải quyết
thỏa đáng vấn đề tiền lương, chế độ đãi ngộ, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ
giữa tiền lương, chế độ đãi ngộ với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao.
Thứ ba, thực hiện quản trị nhà nước tốt.
Ở
Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra mục tiêu xây dựng nền quản
trị quốc gia hiện đại, hiệu quả. Quản trị nhà nước thực chất là vấn đề
thể chế - có ý nghĩa quan trọng đặc biệt với sự phát triển của các quốc
gia. Ở cấp độ quốc tế, Liên hợp quốc khuyến khích các quốc gia thực hiện
quản trị nhà nước tốt theo những tiêu chí pháp quyền, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, sự tham gia của nhân dân, kịp thời, hiệu lực, hiệu
quả, bao trùm và định hướng đồng thuận. Vì vậy, việc đẩy nhanh nghiên
cứu áp dụng các tiêu chí của quản trị nhà nước tốt ở Việt Nam hiện nay
là rất cần thiết.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn lực lao động.
Kỹ
năng thấp là rào cản đối với người lao động Việt Nam trong tiếp cận thị
trường việc làm, cũng là rào cản đối với Việt Nam trong việc đạt được
những thành tựu lớn hơn trong hội nhập quốc tế trong điều kiện cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt, Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh
tranh vì lao động giá rẻ trong các ngành đòi hỏi kỹ năng thấp và thâm
dụng lao động khi tiền lương chắc chắn sẽ tăng cùng với tiến trình phát
triển của nền kinh tế. Do vậy, cần đổi mới giáo dục và đào tạo trên cơ
sở tôn trọng và vận dụng các nguyên tắc thị trường để nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, qua đó nâng cao chất lượng lao động nhằm cải
thiện năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh của đất nước trong
hội nhập quốc tế.
Thứ năm, xây dựng và thực thi chính sách công nghiệp quốc gia.
Cần
xác định ngành, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo then chốt quốc
gia, dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo,
bảo đảm thực hiện tốt vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vị thế
của Việt Nam trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tạo
lập các điều kiện môi trường, chính sách khoa học - công nghệ, chính
sách nhân lực và chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thúc đẩy
phát triển thị trường vốn, phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo then chốt quốc gia.
Thứ
sáu, đổi mới chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân trong nước.
Đổi
mới chiến lược thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
hướng gắn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với các chiến lược và quy
hoạch phát triển tổng thể quốc gia, bảo đảm hình thành các chuỗi cung
ứng và cụm liên kết ngành công nghiệp, tập trung vào các ngành, công
đoạn tạo ra giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ thân thiện với môi
trường và tiêu tốn ít năng lượng. Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh các
công cụ chính sách đang được sử dụng, cần áp dụng công cụ thuế một cách
hợp lý để thúc đẩy các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
sử dụng công nghệ tiên tiến và mở rộng liên kết với doanh nghiệp trong
nước.
Bên cạnh đó, cần
nhận thức rõ đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ là động lực dẫn dắt, không
có nền kinh tế nào có thể “cất cánh”, không có nền kinh tế nào có thể
độc lập, tự chủ chỉ thuần túy dựa trên ngoại lực hoặc dựa trên sự quá
coi trọng ngoại lực (đầu tư nước ngoài). Chỉ có thúc đẩy doanh nghiệp tư
nhân trong nước lớn mạnh trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo thực sự của
khu vực kinh tế nhà nước mới bảo đảm sự năng động của nền kinh tế, mới
là nền tảng vững chắc để giúp Việt Nam vượt qua “bẫy thu nhập trung
bình”, trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Do vậy, phải xây dựng được lực lượng
doanh nghiệp trong nước vững mạnh, có quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt và
hình thành chuỗi cung ứng trong nước, đủ khả năng vươn ra thị trường
thế giới./.
PGS. TS. NGUYỄN QUỐC THÁI
Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
___________________________
(1) (8) (11) (14) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, tr.25, 92, 31, 31.
(2) (3) (4) (5) (6) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội IX của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-1545.
(7) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI của Đảng,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-x-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xi-cua-dang-1526.
(9) (10) Xem: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội VI của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491.
(12)
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, 37% nguyên liệu đầu vào phục vụ hoạt
động sản xuất trong nước là nhập khẩu. Riêng trong ngành công nghiệp chế
biến, tỉ trọng nguyên liệu nhập khẩu chiếm 50,98%. Điều này cho thấy
nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào nước ngoài.
(13)
Báo cáo nghiên cứu tổng thể của JICA về thực trạng trạng phát triển
nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam giai đoạn 9/2021 - 5/2022, trong
những năm gần đây, năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng cải
thiện. Tuy nhiên, tốc độ cải thiện ko lớn, thiếu ổn định, chưa đủ để rút
ngắn khoảng cách quá lớn về năng suất lao động giữa Việt Nam và các
nước khác. Thậm chí, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đang
đối mặt với xu hướng giảm và đình trệ trong thập kỉ qua. Do vậy, đến nay
Việt Nam vẫn là một trong những nước có năng suất lao động thấp nhất
trong khu vực..
(15)
Tính đến 31/12/2021, Việt Nam thu hút được 408 tỉ USD vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (vốn đăng kí), đứng thứ 18 trên thế giới và thứ 2 ở Đông
Nam Á.
(Nguồn: TC Cộng sản)