Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đang được Quốc hội cho ý kiến để hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch, khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.
Ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài Nguyên và Môi trường trả lời phỏng vấn của phóng viên về vấn đề này.
PV: Việc quy hoạch, điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng cũng
như bảo vệ phát triển thủy lợi chiếm một tỷ lệ rất lớn trong quản lý
nguồn nước. Ông đánh giá như thế nào về việc quản lý nhà nước về tài
nguyên nước thời gian vừa qua? Bên cạnh những mặt thuận lợi còn có những
khó khăn gì, thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh: Luật Tài nguyên nước lần đầu tiên được Quốc hội thông qua năm 1998,
được sửa đổi lần thứ nhất năm 2012. Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã
được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/1/2013 đến nay. Trên cơ sở các quy định của
Luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành hoặc Bộ ban hành theo thẩm quyền 70 văn bản để
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và triển khai Luật (14 Nghị định,
21 Quyết định của Thủ tướng và 35 Thông tư).
Kể từ khi có hiệu lực đến nay, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã phát
huy hiệu lực, hiệu quả về nhiều mặt, tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ,
toàn diện trong quản lý, bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước góp
phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã
hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước. Tài nguyên nước được
quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước. Ngoài ra, một số văn bản đã ban hành trở thành công cụ
pháp lý quan trọng phục vụ công tác quản lý tài nguyên nước: Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt 7/15 quy hoạch về tài nguyên nước, gồm: Quy
hoạch tài nguyên nước; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên
nước; quy hoạch tổng hợp của 5 lưu vực sông: Bằng Giang - Kỳ Cùng, Sê
san, Srepok, Hồng - Thái Bình, Cửu Long.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật Tài
nguyên nước năm 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến
khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý
cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh
hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước,
giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn
đề bổ sung nhân tạo nước dưới đất; vấn đề giảm thiểu ngập lụt đô thị,
định giá đầy đủ giá trị của tài nguyên nước. Một số điều kiện kinh doanh
không còn phù hợp; chưa có cơ chế, chính sách minh bạch, rõ ràng để tạo
điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nguồn lực xã hội của các thành
phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc phạm vi trách nhiệm
của bộ, ngành, địa phương. Một số nội dung phát sinh mới trong thực tiễn
nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Cùng với đó, việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số nơi
còn chưa nghiêm, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm
soát, giám sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề
nước xuyên biên giới còn chưa đồng bộ; sự phối hợp chưa đồng bộ, hiệu
quả giữa các cấp, các ngành. Một số nội dung của pháp luật có liên quan
chưa thống nhất, đồng bộ với Luật Tài nguyên nước,…
PV: Việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thông qua cách tiếp cận về kinh
tế tuần hoàn nhằm quản lý, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả được các đại
biểu Quốc hội rất quan tâm. Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường
cần có những giải pháp gì nhằm bảo vệ an ninh nguồn nước ở Việt Nam,
thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh: Vấn đề sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tái sử dụng nước, sử dụng
nước tuần hoàn được nhiều Đại biểu Quốc hội cũng như nhiều tổ chức quốc
tế quan tâm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, giá trị sử dụng nước
của Việt Nam rất thấp, chỉ tạo ra 2,37 USD/m3 nước, bằng khoảng 1/10 so
với mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD. Tỷ lệ thất thoát nước trong
cấp nước sinh hoạt đô thị, nông thôn còn cao (20-25%). Tỷ lệ công trình
cấp nước sinh hoạt nông thôn hoạt động không hiệu quả còn rất lớn (30%).
Hiệu suất sử dụng nước cho nông nghiệp của Việt Nam ở mức thấp, chỉ đạt
0,2 USD/m3. Nước sử dụng trong nông nghiệp chiếm 81% tổng lượng nước
khai thác sử dụng của Việt Nam nhưng chỉ tạo ra 17-18% GDP. Do đó, khi
xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Ban soạn thảo cũng đã
nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và tính toán kỹ lưỡng việc tiếp thu
nội dung gì, tiếp thu như thế nào để vừa đảm bảo tính khả thi vừa phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam góp phần bảo đảm an ninh
nguồn nước quốc gia.
Về vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước, Việt Nam cần phải thực hiện
tổng hợp, đồng bộ nhiều giải pháp với sự vào cuộc quyết liệt của nhiều
bộ, ngành như đã được Bộ Chính trị nêu tại Kết luận số 36-KL/TW ngày
23/6/2022 về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Với vai trò là cơ quan thực hiện
nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước, Cục Quản lý tài nguyên nước đã và sẽ
tiếp tục tham mưu cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, thực hiện các giải
pháp như: Xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ
sung các quy định cụ thể như: Nguyên tắc, chính sách, hoạt động điều tra
cơ bản tài nguyên nước, quản lý các thông tin, cơ sở dữ liệu về tài
nguyên nước, quản lý nhu cầu khai thác, sử dụng nước, quy hoạch về tài
nguyên nước, quản lý việc điều hòa, phân phối nguồn nước cho các mục
đích sử dụng; đảm bảo chất lượng cho các mục đích sử dụng như: chức năng
nguồn nước; hành lang bảo vệ nguồn nước, đảm bảo chất lượng nước cho
nước sinh hoạt… Đặc biệt, quy định cụ thể về điều hòa, phân phối tài
nguyên nước, nhất là trong điều kiện hạn hán, thiếu nước.
Ngoài ra, Bộ cần triển khai thực hiện các quy hoạch về tài nguyên
nước đặc biệt là quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch tổng hợp lưu vực
sông Cửu Long; điều tra, đánh giá, bảo vệ tài nguyên nước; quan trắc,
giám sát tài nguyên nước để kịp thời ứng phó khi sự cố xảy ra; thực hiện
các đề án, dự án nhằm phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô
nhiễm.
Đồng thời, Bộ cần theo dõi chặt chẽ, cập nhật liên tục các bản tin
cảnh báo, dự báo diễn biến tình hình khí tượng, thủy văn, hạn hán, thiếu
nước xâm nhập mặn để chủ động trong triển khai các kế hoạch sản xuất,
thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn
trong đó ưu tiên cao nhất đảm nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân. Chỉ đạo
việc nghiên cứu, sử dụng hiệu quả các tài liệu, kết quả của chương
trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất, số liệu quan trắc, dự báo
và cảnh báo tài nguyên nước đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuyển
giao cho các địa phương để thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn hán
thiếu nước, xâm nhập mặn trước mắt cũng như lâu dài, đặc biệt là bảo đảm
cấp nước sinh hoạt cho nhân dân những vùng đang xảy ra tình trạng thiếu
nước nghiêm trọng.
Bộ cần tăng cường chia sẻ thông tin, dữ liệu
về tài nguyên nước; xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả
nước và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa trung ương và địa phương,
các ngành. Chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm
nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên
nước của người dân và doanh nghiệp.
Khu vực Mũi Cà Mau nhìn từ trên cao. (Ảnh minh họa: TTXVN)
PV: Quan điểm xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là nhằm thể chế
hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và
do Nhà nước thống nhất quản lý. Vấn đề thu hút nguồn lực xã hội, huy
động sự tham gia, giám sát của cộng đồng trong việc bảo vệ nguồn nước
cần được thể hiện cụ thể thế nào, thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh: Khi xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Ban soạn thảo
dựa trên các quan điểm xây dựng Luật, trong đó có quan điểm tài nguyên
nước là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất
quản lý. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong toàn bộ dự thảo Luật từ
nguyên tắc, chính sách đến các hoạt động điều tra cơ bản, quy hoạch,
bảo vệ, khai thác tài nguyên nước…, trong đó tập trung vào một số điểm
như: Bổ sung các quy định nhằm chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành
chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế, thông qua các quy định về phí,
lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; bổ sung các quy định
nhằm kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, nâng cao ý
thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng
nước.
Cụ thể, bổ sung các quy định nhằm huy động sự tham gia, giám sát của
cộng đồng trong bảo vệ nguồn nước như cho ý kiến về các dự án, hoạt động
có khai thác, sử dụng nước với quy mô lớn, giám sát thông qua hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội… bổ sung các quy
định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước. Sửa
đổi, bổ sung các quy định về quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền
khai thác tài nguyên nước, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm
tính đúng, tính đủ giá trị tài nguyên nước.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng bổ sung một điều mới về “tích hợp hoạt
động tài nguyên nước”, nhằm tính toán giá trị của nước trong các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội. Việc tính toán đầy đủ giá trị của nước
là một trong những căn cứ để cơ quan có thẩm quyển xem xét, quyết định
việc điều hòa, phân bổ và thực hiện các giải pháp bảo vệ tài nguyên nước
trên các lưu vực sông.
Trân trọng cảm ơn ông!./.
DIỆU THÚY (TTXVN)