Công tác xây dựng pháp luật là nội dung trọng tâm trong ngày làm việc thứ 12 của Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.
Trong ngày làm việc 5/6, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về 3 dự án Luật: Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Đảm bảo chất lượng nhà tái định cư
Cho ý kiến về dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Hữu Chính (Hà Nội) cho rằng, bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy, nhà ở tái định cư và nhà ở thương mại có chất lượng hoàn toàn khác nhau. Do đó, theo đại biểu, trong dự thảo Luật, về vấn đề tái định cư cần quy định rõ về chất lượng, tránh trường hợp người dân bị giải tỏa và bố trí tái định cư ở những nơi có chất lượng kém. Đại biểu cũng đánh giá, chính sách của Nhà nước ta đối với những người được hỗ trợ tái định cư còn rất thấp; cần có điều chỉnh về chất lượng các khu nhà tái định cư.
Nêu ý kiến đối với vấn đề nhà ở xã hội, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, nhà ở xã hội có 2 loại, do Nhà nước đầu tư và từ nguồn vốn xã hội hóa (do doanh nghiệp đầu tư).
Nếu nhà ở xã hội do Nhà nước đầu tư, theo Bộ trưởng, trong dự thảo luật cần ghi rõ UBND tỉnh giao chủ đầu tư thực hiện, đồng thời UBND tỉnh chịu trách nhiệm quy định giá bán và giá thuê. "Vì đất làm nhà ở xã hội không thu tiền, đương nhiên Nhà nước đầu tư làm thì quy định giá bán cho đối tượng được mua", Bộ trưởng lý giải.
Với loại nhà ở xã hội do doanh nghiệp đầu tư, Bộ trưởng cho biết, chưa có quy định giá bán do ai duyệt. "Đã là nhà ở xã hội thì tôi cho rằng, giá bán phải do Nhà nước duyệt. Bởi doanh nghiệp đầu tư, nhưng chỉ đầu tư vốn, còn đất là Nhà nước giao, không thu tiền sử dụng đất, giao đất sạch, đương nhiên Nhà nước phải khống chế mức bán tối đa", Bộ trưởng nêu ý kiến.
Theo Bộ trưởng, quy định Nhà nước quyết định giá bán thì mới bán đúng đối tượng, cho thuê đúng đối tượng, nếu không sẽ rơi vào “kênh” nhà ở thương mại.
Bộ trưởng nhấn mạnh lại, dù là dạng nhà ở xã hội do Nhà nước hay doanh nghiệp đầu tư thì đều cần do Nhà nước quyết giá. Ông cũng đề xuất: "Đối với nhà ở xã hội do Nhà nước đầu tư thì bán đúng giá, còn với doanh nghiệp đầu tư thì phải quy định giá tối đa để khuyến khích đầu tư của doanh nghiệp, nguồn vốn xã hội”.
Cần giải pháp triệt để xóa "tín dụng đen"
Thảo luận ở tổ về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chiều 5/6, các đại biểu tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng; tăng cường sự an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng; tạo cơ chế xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh) đề nghị cân nhắc, quy định tách bạch giữa chức năng đầu tư với chức năng thương mại của ngân hàng bởi một số ngân hàng hiện sử dụng nguồn tiền gửi để đi đầu tư, đặc biệt là những lĩnh vực có rủi ro như bất động sản, chứng khoán.
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị trong quá trình sửa đổi Luật, cần bổ sung quy định đảm bảo minh bạch, công khai về hoạt động kinh doanh bảo hiểm qua ngân hàng. Bởi, theo đại biểu, cử tri băn khoăn về việc khi thực hiện vay ở các ngân hàng bị nhân viên ngân hàng yêu cầu mua bảo hiểm mới được giải ngân, hỗ trợ.
Về tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 55), so với Luật hiện hành, dự thảo Luật có điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là cá nhân, cổ đông là tổ chức, cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó tương ứng từ không được vượt quá 5%, 15%, 20% xuống còn 3%, 10% và 15%.
Các đại biểu đề nghị làm rõ hơn cơ sở đề xuất các tỷ lệ này; đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các tổ chức tín dụng để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo, từ đó đề xuất giải pháp căn cơ, triệt để và xử lý được tình trạng sở hữu chéo như hiện nay.
Cho rằng dự thảo Luật vẫn chưa đưa ra giải pháp triệt để xóa bỏ “tín dụng đen”, đại biểu Tạ Thị Yên (Điện Biên) nhấn mạnh, cần giải quyết tận gốc vấn đề, người dân trong xã hội có nhu cầu vay nhanh những khoản vay ngắn hạn, giá trị nhỏ (chủ yếu là tín chấp). Hệ thống các tổ chức tín dụng hiện tại không đáp ứng được nhu cầu này của người dân vì thủ tục phức tạp, chi phí giao dịch cao so với giá trị khoản vay, do đó họ phải tìm tới “tín dụng đen” với rất nhiều rủi ro.
Để giải quyết bài toán này, đại biểu đề xuất cần ứng dụng công nghệ, phát triển ngân hàng số, cho phép xử lý giao dịch với số lượng lớn trong thời gian ngắn, giảm chi phí giao dịch. Việc xử lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu quy mô lớn cũng cho phép đánh giá đúng khả năng trả nợ của người vay, giảm thiểu rủi ro và chi phí thu nợ.
Phân định rõ chức năng quản lý của các bộ, ngành
Về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), qua thảo luận tại tổ, các đại biểu Quốc hội đánh giá, dự án Luật đã được Chính phủ chuẩn bị công phu, có tiếp thu kinh nghiệm quốc tế. Việc sửa đổi Luật là kịp thời, đúng thời điểm xu thế cuộc sống hiện nay cũng như tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nêu quan điểm, so với thế giới, Việt Nam có nguồn tài nguyên nước phong phú nhưng phân bố không đều về mặt lãnh thổ và thời gian; vẫn còn tình trạng sử dụng lãng phí, khai thác quá mức, gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước… Những vấn đề này cần được đặt ra trong luật. Dự thảo Luật cũng chưa có quy định cụ thể về tái tạo sử dụng nguồn nước, trong đó có nước thải, đây cũng là một loại tài nguyên. Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, việc sửa đổi luật không chỉ nêu vấn đề quản lý, cần có tư duy và tầm nhìn mới về vấn đề này.
Nhất trí với quy định về chức năng của nguồn nước, đại biểu Lý Thị Lan (Hà Giang) cho rằng, đây sẽ là căn cứ quan trọng và rất cần thiết khi xem xét, quyết định việc chấp thuận, phê duyệt, cấp phép cho một dự án có hoạt động khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước trên một đoạn sông. Đây cũng là căn cứ quan trọng để xem xét việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước; lựa chọn các giải pháp quản lý, bảo vệ nguồn nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; hạn chế được việc dàn trải nguồn vốn đầu tư cũng như tập trung nguồn lực vào bảo vệ các nguồn nước quan trọng.
Đại biểu đề nghị làm rõ khái niệm “phát triển tài nguyên nước” tại Điều 3 dự thảo Luật, bởi để phát triển tài nguyên nước, ngoài việc bảo vệ phát triển rừng - nguồn sinh thủy, còn cần phải bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, đặc biệt là các hồ chứa nước lớn, quan trọng; cần xây dựng các công trình chứa nước phục vụ đa mục tiêu, các công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất. Ngoài ra còn cần giải pháp bảo đảm gắn kết quy hoạch tài nguyên nước với quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch quốc phòng, an ninh.
Về chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành, đánh giá đây là vấn đề khó khăn nhất vì theo nguyên tắc quản lý nước là quản lý theo lưu vực, tức là quản lý tổng hợp, đại biểu Lê Thành Long (Kiên Giang) đề nghị phân định rõ chức năng quản lý của các bộ, ngành; cụ thể là phân định trách nhiệm của chức năng quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng. Đại biểu cũng đề nghị rà soát kỹ về điều khoản thi hành để đảm bảo đủ thời gian thực hiện chuyển tiếp, tránh xung đột pháp luật.
Phan Phương (TTXVN)