Thứ Năm, 28/11/2024
Cuộc sống số
Thứ Năm, 15/1/2015 10:29'(GMT+7)

Quy hoạch kho số viễn thông phù hợp với thị trường cạnh tranh

Ngày 22-12-2014, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 22/2014/TT-BTTT ban hành Quy hoạch kho số viễn thông. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1-3-2015 và thay thế cho Quyết định số 52/2006/QĐ-BBCVT ngày ngày 15-12-2006 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông ban hành Quy hoạch đánh số điện thoại quốc gia và Quyết định số 53/2006/QĐ-BBCVT về việc phân bổ và sử dụng các loại mã, số viễn thông.

Thông tư số 22/2014/TT-BTTTT được xây dựng và ban hành với mục tiêu quy hoạch được sử dụng lâu dài; quy hoạch hợp lý đảm bảo với việc sử dụng kho số tiết kiệm, hiệu quả, thúc đẩy thị trường viễn thông phát triển bền vững. Việc quy hoạch này cũng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết; bảo đảm công bằng, minh bạch đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ; hạn chế tối đa ảnh hưởng không tích cực có thể phát sinh đối với doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, trong quá trình nghiên cứu xây dựng thông tư này, Bộ đã nghiên cứu rất kỹ về thị trường, công nghệ, đã làm việc với các doanh nghiệp viễn thông, khảo sát đánh giá tình hình thực tế phát triển của thị trường. Từ đó, đưa ra quy hoạch kho số bảo đảm việc sử dụng tài nguyên hiệu quả, bảo đảm tính bền vững của quy hoạch này trong một thời gian dài, tránh việc thường xuyên thay đổi mã số ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Việc quy hoạch kho số viễn thông, đặc biệt là quy hoạch mã vùng, mã mạng đã tồn tại cách đây hàng chục năm, từ khi có ngành viễn thông Việt Nam và vẫn tồn tại cho đến bây giờ. Tuy nhiên, trong những năm qua, môi trường kinh doanh viễn thông, công nghệ viễn thông đã thay đổi nhanh chóng. Với số lượng thuê bao như hiện nay, tồn tại một bất cập lớn là: số mã mạng rất ít trong khi số thuê bao điện thoại di động rất lớn. Số thuê bao điện thoại cố định rất ít nhưng lại được sử dụng số mã mạng rất nhiều. Trong một vài năm tới, số thuê bao điện thoại cố định thậm chí có thể giảm xuống chỉ còn vài triệu thuê bao, thuê bao di động ngày càng tăng thì tình trạng này ngày càng bất cập. Đặc biệt, hiện nay kết nối di động không chỉ người với người mà cả người với máy, máy với máy. Theo dự đoán của các tổ chức thế giới, đến năm 2050, trên thế giới có khoảng 50 tỷ kết nối. Nếu không quy hoạch các mã vùng di động thì sẽ không đủ để kết nối giữa người với người, máy với máy.

Bên cạnh đó, môi trường viễn thông của Việt Nam từ độc quyền, chỉ có một doanh nghiệp đó là VNPT, đến nay có hàng chục doanh nghiệp hạ tầng mạng, hàng trăm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Số lượng cần sử dụng mã số tăng lên rất nhiều. Trước đây, không có khái niệm nhà cung cấp dịch vụ nội dung nhưng trong những năm gần đây, trước sự phát triển của Internet và điện thoại thông minh, dịch vụ nội dung phát triển rất mạnh. Do đó, cần có đầu số cho nhà cung cấp dịch vụ nội dung. Việc quy hoạch lại kho số cho phù hợp với thị trường trong môi trường hoạt động cạnh tranh có nhiều doanh nghiệp tham gia lúc này là cần thiết.

Trong quy hoạch kho số mới, thay đổi lớn nhất là quy hoạch mã vùng. Mã vùng chỉ phục vụ chủ yếu cho các cuộc gọi đường dài. Theo số liệu thống kê từ báo cáo của các doanh nghiệp thì tổng lưu lượng của các cuộc gọi cố định đường dài, từ di động gọi vào các máy cố định, từ quốc tế vào máy cố định Việt Nam, chiếm 1,6% tổng lưu lượng viễn thông Việt Nam. Như vậy, tác động thực sự tới các cuộc gọi không nhiều. Do đó, khi thay đổi mã vùng, tuy có ảnh hưởng nhưng tác động rất nhỏ, đối tượng bị ảnh hưởng chủ yếu tập trung ở khối cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức.

Thay đổi thứ hai có thể tác động tới xã hội là sau khi bố trí sắp xếp mã vùng, mã vùng thừa ra, sẽ được dùng cho mã mạng di động. Từ đó, sẽ có cơ hội để chuyển tất cả các thuê bao đầu 11 số thành 10 số. Khi thay đổi đầu 11 số xuống đầu 10 số thì chỉ ảnh hưởng đến thuê bao 11 số. Trong thay đổi thuê bao 11 số thì 7 số cuối vẫn giữ nguyên. Thay đổi này theo chiều hướng tích cực, được sử dụng ủng hộ của đa số người sử dụng.

Về kế hoạch triển khai quy hoạch, thời điểm 1-3-2015 là thời điểm có hiệu lực của quy hoạch chứ không phải tất cả các nội dung quy hoạch bắt đầu phải thực hiện từ thời điểm này. Bộ sẽ xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện quy hoạch. Việc thực hiện quy hoạch có thể diễn ra trong nhiều năm. Quy hoạch để người dân, doanh nghiệp biết định hướng của Nhà nước. Sau đó, Nhà nước mới ban hành kế hoạch cụ thể để thực hiện quy hoạch. Do đó, việc thay đổi mã vùng dự kiến sẽ làm trong nhiều giai đoạn, theo từng khu vực. Tiếp đó, mới xây dựng kế hoạch chuyển đổi thuê bao di động từ 11 số sang 10 số. Như vậy, quy hoạch được thực hiện trong thời gian dài. Nhóm đối tượng  bị ảnh hưởng sẽ được thông báo lộ trình cụ thể để dần thay đổi chứ không phải từ 1-3-2015 tất cả sẽ phải thay đổi.

Khi có kế hoạch cụ thể, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông để có biện pháp, giải pháp cụ thể làm sao ít bị ảnh hưởng nhất. Doanh nghiệp sẽ thông báo đến đối tượng bị ảnh hưởng trước 60 ngày sau khi kế hoạch thực hiện quy hoạch được ban hành. Thời gian thực hiện thay đổi các doanh nghiệp sẽ triển khai các biện pháp kỹ thuật bảo đảm lập trình song song cả số cũ và số mới. Trong vài tháng, gọi số theo cách cũ và mới đều được thực hiện bình thường. Sau một thời gian, khi người sử dụng gọi vào số cũ, tổng đài sẽ có thông báo cần phải quay số mới. Việc thông báo tự động sẽ được thực hiện thêm một thời gian nữa, sau đó mới chuyển đổi hoàn toàn. Việc triển khai quy hoạch có lộ trình với nhiều giải pháp, biện pháp đi kèm để đảm bảo tác động đối với tổ chức, cá nhân là ít nhất.

 Bảo Long

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất