(TG) - “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay thực chất là quá trình biến đổi từ bên trong theo chiều hướng từ đúng sang sai, từ tốt sang xấu, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đến mức cao hơn là thay đổi lập trường, quan điểm chính trị, đạo đức, lối sống, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân; cổ súy, ủng hộ, tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù, chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân.
“TỰ DIỄN BIẾN” “TỰ CHUYỂN
HÓA” LÀ SỰ SUY THOÁI
“Tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên là hệ quả của sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống theo chiều hướng
ngày càng tăng, tính chất ngày
càng nghiêm trọng. Điều đó
khiến cho vai trò tiên phong,
gương mẫu của họ ngày càng
giảm, không đủ “sức miễn dịch”,
thiếu “sức đề kháng” trước
những tác động tiêu cực trong
xã hội, đồng lõa với những âm
mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch, phản động
đối với cách mạng Việt Nam.
Đó còn là biểu hiện rõ nhất của
bản lĩnh chính trị không vững
vàng, từ chỗ ban đầu là mơ hồ
ảo tưởng, hoang mang, dao động
về tư tưởng chính trị, phai nhạt
mục tiêu lý tưởng cách mạng
dẫn đến hoài nghi về sự lãnh
đạo của Đảng, về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Cụ thể hơn, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” còn biểu hiện
ở những việc sẵn sàng tiếp
nhận những thông tin trái
chiều, những luận điệu ly khai,
chống đối, lý luận phản động;
phản bác, phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các nguyên tắc tổ chức
của Đảng, đòi thực hiện “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối
lập”; nói, viết, làm trái quan
điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; kích động tư tưởng
bất mãn, bất đồng chính kiến,
chống đối trong nội bộ, phủ
nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với lực lượng vũ trang; móc nối,
câu kết với các thế lực thù địch,
phản động và các phần tử cơ
hội, bất mãn chính trị để truyền
bá tư tưởng, quan điểm đối lập;
đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc
đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước; phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí, văn học - nghệ thuật…
Những biểu hiện trên cũng đã
được V.I.Lênin chỉ ra từ những
năm đầu của thế kỷ XX, dưới
các biểu hiện khác nhau của
những người đảng viên trong
các Đảng dân chủ - xã hội Tây Âu
như: tư tưởng cơ hội về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, khoác
áo chủ nghĩa Mác nhưng chống
chủ nghĩa Mác, đòi xét lại chủ
nghĩa Mác, phủ nhận chủ nghĩa
Mác… Đó chính là bọn cơ hội chủ
nghĩa, tay sai của giai cấp tư sản.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã chỉ rõ những biểu
hiện: “Thấp kém về tinh thần và
đạo đức cách mạng… mang nặng
chủ nghĩa cá nhân… không có
dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ
về trách nhiệm của mình, không
quyết tâm vươn lên phía trước…
hững hờ như những người không
có lý tưởng,… không có thái độ
người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm”(1); “ít gắn bó với tổ chức,
không tin ở lực lượng và trí tuệ
của tập thể. Họ sống và làm việc
một cách riêng rẽ, không đoàn
kết và hợp tác với người khác… tự
cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo,
tự cho mình tài giỏi hơn người…
coi thường những quyết định của
tổ chức,… coi Đảng như một cái
cầu thang để thăng quan phát
tài… chỉ lo nghĩ đến lợi ích của
riêng mình… phô trương, lãng
phí… sống xa hoa hưởng lạc, từ đó
mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm
chí sa vào tội lỗi”(2), “biến thành
người có tội với cách mạng” trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên
suy thoái.
Để khắc phục các biểu
hiện, hiện tượng đó, Người khẳng
định phải: “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân” và mỗi “người đảng
viên chẳng những phải ra sức rèn
luyện và tu dưỡng, trong lúc gian
khổ khó khăn, trong lúc thất bại,
mà còn và càng phải rèn luyện
và tu dưỡng trong lúc thuận lợi,
trong lúc thành công”(3).
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ LÀ SỰ
THỂ HIỆN “TÍNH ĐẢNG”
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên,
bản lĩnh chính trị là phẩm chất
tuyệt đối cần thiết; là sự thể hiện
“tính đảng”; là trong mọi hoàn
cảnh, mọi thời điểm đều phải:
“Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập
trường. Tận trung với nước. Tận
hiếu với dân”(4); “quyết tâm suốt
đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân
dân…, đó là đạo đức cách mạng,
đó là tính Đảng, tính giai cấp”(5).
Bản lĩnh chính trị của mỗi
cán bộ, đảng viên thể hiện ở sự
kiên định với mục tiêu, lý tưởng
của Đảng - độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định nền tảng
tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định đường lối đổi
mới, các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt đảng, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ...
Bản lĩnh
chính trị của Đảng còn được thể
hiện trong nhận thức và hành
động của đội ngũ cán bộ, đảng
viên; thể hiện ở sự vững vàng,
kiên định, không dao động
trước mọi âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù; quyết tâm phấn đấu,
vượt mọi khó khăn gian khổ để
hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi
ích của Đảng và của nhân dân;
kiên quyết đấu tranh chống lại
mọi âm mưu và hoạt động “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ
chống phá chế độ của các thế
lực thù địch, đấu tranh chống lại
các quan điểm sai trái, đấu tranh
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc.
Bản lĩnh chính trị của mỗi
cán bộ, đảng viên không phải tự
nhiên mà có. Đó là sản phẩm của
quá trình giáo dục, bồi dưỡng,
học tập và rèn luyện thường
xuyên, kiên trì, bền bỉ trong
thực tiễn phong trào cách mạng
của mỗi người.
Khi mỗi người, trong mọi thời
điểm thường xuyên tu dưỡng,
rèn luyện, luôn thực hiện nguyên
tắc tự phê bình và phê bình, có
tinh thần vững vàng, niềm tin
chắc chắn và sự kiên định thì
“phú quý không dụ dỗ được ta,
nghèo khổ không lay động được
ta, oai lực không dọa nạt được ta.
Mà khó khăn gì chúng ta cũng
vượt qua được, việc gì chúng ta
cũng làm được”(6).
PHẢI RÈN LUYỆN BẢN LĨNH
CHÍNH TRỊ
“Tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận đội ngũ
cán bộ, đảng viên hiện nay là do
sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang
mang, dao động trước những tác
động từ bên ngoài; sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị
cám dỗ bởi các lợi ích vật chất,
v.v.. Trong đó, có “không ít cán bộ
trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ
phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
làm việc hời hợt, ngại khó, ngại
khổ, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(7).
V.I.Lênin từng chỉ rõ, các
thế lực thù địch không ai có
thể đánh đổ được chúng ta, trừ
chính những sai lầm của chúng
ta và “không một ai trên thế giới
này có thể làm mất được uy tín
của những người Mácxít cách
mạng nếu họ không tự làm mất
uy tín của họ”(8). Vì vậy, phải
rèn luyện bản lĩnh chính trị để
phòng và chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên, góp phần bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức.
Theo đó, các
cấp ủy cần tập trung thực hiện
tốt các biện pháp căn cốt sau:
Một là, tăng cường giáo dục
chính trị tư tưởng, lý luận cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Kém lý luận,
hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận
suông” dẫn tới khuyết điểm và
trước hết, nguy hiểm nhất là
“khuyết điểm về tư tưởng, tức là
bệnh chủ quan” mà “nếu không
chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại
vô cùng”(9). Vì thế, học tập lý luận
chính trị, đổi mới công tác giáo
dục lý luận chính trị là công việc
quan trọng, cần thiết, cấp bách,
thường xuyên và lâu dài của mỗi
tổ chức, cán bộ, đảng viên. Trau
dồi, bồi dưỡng về lý luận chính
trị; khắc phục những hạn chế
trong công tác giáo dục chính trị
tư tưởng; giảng dạy và học tập
nghị quyết của Đảng... sẽ giúp
cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc
bản chất cách mạng, khoa học;
những nguyên lý, quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cộng sản, đạo đức cách mạng;
thấu suốt đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Từ đó có nhận thức chính trị,
tình cảm chính trị đúng đắn, có
thế giới quan, phương pháp luận
khoa học. Trong học tập, phải
gắn lý luận với thực tiễn, phục vụ
nhu cầu công tác, phát huy tính
độc lập, tích cực, chủ động, sáng
tạo, “học đi đôi với hành”. Đa
dạng hóa các phương thức giáo
dục lý luận chính trị theo hướng
thiết thực, hiệu quả nhằm nâng
cao khả năng “tự miễn dịch, tự
đề kháng” trước những tác động
tiêu cực, trái chiều.
Hai là, thường xuyên giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng, phòng và chống chủ nghĩa
cá nhân.
Giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng, phát huy vai trò nêu
gương, thống nhất giữa nói và
làm của mỗi cán bộ, đảng viên
nhằm tăng cường “sức đề kháng”
chống lại “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Rèn
luyện nâng cao bản lĩnh chính
trị phải luôn gắn với “nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” theo phương
châm mọi tổ chức, cán bộ, đảng
viên phải tự giáo dục và rèn luyện
hằng ngày.
Trong đó, gắn thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ
Chính trị với Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XII về xây dựng và
chỉnh đốn Đảng và Quy định số
08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương”… Thực hiện
tốt chương trình kiểm tra, giám
sát của cấp ủy, tổ chức đảng các
cấp đối với việc thực hiện chỉ thị,
nghị quyết và đưa vào tiêu chí thi
đua, đánh giá xếp loại đảng viên,
tổ chức đảng hằng năm.
Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền; kịp thời nêu gương
người tốt, việc tốt, nhân rộng
các tập thể, cá nhân tiêu biểu
đi liền với nghiêm túc phê phán
những biểu hiện tiêu cực, lệch
lạc. Tạo không khí thi đua thiết
thực trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh gắn với các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc
vận động ở từng cơ quan, địa
phương, đơn vị.
Ba là, đổi mới công tác cán bộ
theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4, 6, 7 khóa XII.
Bố trí, sử dụng cán bộ đúng
chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở
trường, đúng việc, đúng người.
Lựa chọn và tìm được người tài
đức xứng đáng với sự tin tưởng
của tập thể và niềm tin nhân
dân. Tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công
tác tạo nguồn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh
giá, luân chuyển, bố trí cán bộ.
Thực hiện chính sách phát triển
và trọng dụng nhân tài gắn với
đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, với đổi mới cơ cấu,
chức năng của các tổ chức đảng,
chính quyền, đoàn thể trong hệ
thống chính trị. Tiếp tục đẩy
mạnh đào tạo, đào tạo lại theo hướng thiếu cái gì đào tạo, bồi
dưỡng cái ấy nhằm nâng cao
trình độ, năng lực, kỹ năng của
cán bộ, đảng viên để làm việc tốt
hơn, hiệu quả hơn.
Tăng cường luân chuyển
cán bộ lãnh đạo và quản lý; tăng
cường cán bộ cho các lĩnh vực
và địa bàn cần thiết. Khắc phục
tình trạng cục bộ, lợi ích nhóm
trong công tác cán bộ và sự khép
kín trong từng vùng, ngành, từng
địa phương, cơ quan, đơn vị. Tạo
điều kiện để cán bộ trẻ, có triển
vọng, cán bộ trong quy hoạch
được rèn luyện trong thực tiễn.
Hoàn thiện chính sách phát
triển và trọng dụng nhân tài,
thu hút nhân tài vào những lĩnh
vực quan trọng, không phân biệt
những người trong Đảng hay
ngoài Đảng, tạo sự đồng thuận,
thống nhất cao của tất cả các cấp,
ngành trong hệ thống chính trị.
Bốn là, nâng cao sức chiến đấu
của các tổ chức đảng; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật Đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng - nền tảng của Đảng,
hạt nhân chính trị ở cơ sở - để
mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi
cán bộ, đảng viên xứng đáng là
“người lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”.
Cán bộ, đảng viên phải tiên
phong gương mẫu, vững vàng
trước mọi biến động của tình
hình chính trị - xã hội.
Nâng cao
chất lượng sinh hoạt của chi bộ,
chăm lo xây dựng chi bộ trong
sạch, vững mạnh; gắn nâng cao
chất lượng ra nghị quyết với tổ
chức thực hiện và kiểm tra, giám
sát. Chủ động khắc phục những
biểu hiện tiêu cực, sai trái, hạn
chế, khuyết điểm. Kiên quyết
đấu tranh chống lại những quan
điểm, hành động thù địch để
bảo vệ nền tảng, đường lối, quan
điểm của Đảng.
Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát đảng viên chấp hành
chủ trương, đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước; thực hiện Điều lệ Đảng và
quy định về những điều đảng
viên không được làm; tự soi, tự
sửa các biểu hiện suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có
cơ chế để nhân dân tham gia vào
công tác xây dựng Đảng; phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội, báo chí
truyền thông... trong kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên.
Gắn
kiểm tra, giám sát với thi hành
kỷ luật Đảng; kiên quyết, nghiêm
minh xử lý đối với những cán bộ,
đảng viên vi phạm và những tổ
chức đảng yếu kém.
Tăng cường
kiểm tra trách nhiệm chính trị,
vai trò nêu gương của người
đứng đầu trong đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và lợi ích nhóm.
Năm là, tăng cường công tác
bảo vệ chính trị nội bộ.
Chủ động triển khai các biện
pháp, phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan, đơn vị chức năng thực
hiện có hiệu quả công tác phòng
ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa
những hoạt động phá hoại chính
trị nội bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng,
cán bộ chủ trì các cấp luôn nắm
vững và thực hiện tốt các nghị
quyết, chỉ thị, quy định về công
tác bảo vệ chính trị nội bộ; đồng
thời, tăng cường công tác lãnh
đạo, chỉ đạo về công tác này. Đẩy
mạnh công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm cho mọi cán
bộ, đảng viên; gắn công tác bảo
vệ chính trị nội bộ với xây dựng
cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở an
toàn, vững chắc về mọi mặt...
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật,
xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.14,
tr. 468, 469.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.6, tr.296.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.9, tr.354.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.11, tr.611.
(6), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.5, tr.538, 273.
(7) Ban Chấp hành Trung ương:
Nghị quyết 26-NQ/TW về “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”, Văn phòng
Trung ương Đảng, H, 2018, tr. 47.
(8) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2006, t.44,
tr.132.
Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Văn Thế
Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
_______________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 1/2019