(TG)- Tiếp tục chương trình làm việc của phiên họp thứ 36, chiều 12/3, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi).
Tờ trình về dự án Bộ luật Tố tụng dân sự
(sửa đổi) đã nêu bật sự cần thiết ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa
đổi); khẳng định các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa
án Nhân dân năm 2014 đã thể chế hóa một bước các quan điểm, định hướng
của Đảng về cải cách tư pháp, cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các
luật tố tụng, trong đó có Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi).
Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) có tổng số 447 điều, được bố
cục thành 8 phần, 37 chương. So với Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành,
dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) giữ nguyên 226 điều, sửa đổi
184 điều, bổ sung 37 điều, bãi bỏ 10 điều; trong đó bỏ phần về thủ tục
thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án, bỏ chương về tương trợ tư
pháp trong tố tụng dân sự và bổ sung chương về thủ tục rút gọn, thủ tục
công nhận quyết định hòa giải ngoài Tòa án.
Nhiều ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, dự thảo Bộ luật
đã cụ thể hóa được nhiều quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân, cơ bản bảo đảm sự thống nhất đồng bộ với các văn bản quy phạm
pháp luật khác. Các ý kiến cũng cho rằng, dự thảo Bộ luật cũng cần phải
làm rõ các điều kiện bảo đảm tranh tụng, trình tự, thủ tục tranh tụng
trong các giai đoạn xét xử.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đánh giá đây là Bộ luật được chuẩn bị
khá công phu. Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị, đề nghị Ban soạn
thảo phải tổng kết, đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn một số chế định ở
trong Bộ Luật Tố tụng dân sự hiện hành để đưa ra được các căn cứ xác
đáng khi sửa đổi bổ sung lần này.
Các ý kiến cho rằng việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự cần tiếp tục thể
chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, đặc
biệt là các Nghị quyết số 48, 49, Kết luận số 79, Kết luận số 92 của Bộ
Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, xác định yêu
cầu đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Đẩy
mạnh và coi việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là khâu
đột phá của hoạt động xét xử; tạo điều kiện cho các đương sự chủ động
thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về nội dung bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, một số ý
kiến cho rằng cần phải cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và
quy định của Luật tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2014: “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm” đồng thời, cần đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử..., nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tố tụng dân sự.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm cho các bên đương sự được tự
do đưa ra các chứng cứ, lập luận, lý lẽ nhằm chứng minh cho các yêu cầu
của họ hoặc để bào chữa. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên đương sự phải
được biết về tài liệu, chứng cứ của bên kia và được tự do tranh luận tại
phiên tòa. Tất cả quyết định của Tòa án đều phải chủ yếu dựa trên những
chứng cứ đã được đưa ra tranh luận công khai tại phiên tòa.
Vì vậy, dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) cần thể hiện rõ các
điều kiện bảo đảm tranh tụng, tranh tụng cụ thể về việc gì, trình tự,
thủ tục tranh tụng... trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Tuy
nhiên, trong dự thảo vấn đề này chủ yếu mới được thể hiện tại Điều 25 và
Điều 238. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại để thể hiện rõ
hơn nguyên tắc này trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm của dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi).
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị cần phải làm rõ hơn nguyên
tắc tranh tụng không chỉ ở giai đoạn sơ thẩm mà kể cả các giai đoạn tố
tụng khác như phúc thẩm, tái thẩm...
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý đánh giá, một
trong những bổ sung rất quan trọng của Hiến pháp 2013 là trong hoạt động
xét xử, nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm nhưng dự thảo chưa thể hiện
rõ. Dự thảo mới chỉ quy định rõ về tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ
thẩm.
Trong xét xử sơ thẩm thì dùng khái niệm “tranh tụng” nhưng ở giai đoạn
phúc thẩm lại không dùng khái niệm "tranh tụng" mà chỉ quy định cung cấp
thông tin, có tranh luận, có giải thích, có hỏi đáp.
Vậy ở giai đoạn phúc thẩm có dùng khái niệm “tranh tụng” không? Theo Chủ
nhiệm Ủy ban Pháp luật, Ban soạn thảo cần làm rõ vấn đề này. Nếu không
thể hiện rõ hoặc không dùng khái niệm “tranh tụng” thì có phù hợp với
Hiến pháp không…
Tại phiên thảo luận chiều 12/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến
về nhiều nội dung khác như thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự; công
nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án; thẩm quyền của Tòa án trong thi hành
án dân sự…/.
QN