(TG)-Để sống chung với biến đổi khí hậu, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cần có tư duy mới: phải dựa vào nội lực của chính mình và liên kết vùng một cách chặt chẽ, cùng nhau biến thách thức thành cơ hội, giải quyết kịp thời thảm họa thiên tai, phát triển kinh tế, xã hội của cả khu vực,...
Trong nhiều năm qua, trên các phương tiện thông tin truyền thông đã nhận định đánh giá về Đồng bằng sông Cửu Long: được thiên nhiên ban tặng đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, nước ngọt quanh năm, có ưu thế tuyệt đối trong sản xuất nông nghiệp,... có lợi thế về tài nguyên đất, tài nguyên nước để phát triển nông nghiệp; nguồn lao động dồi dào,... Song qua thực tế diễn biến về biến đổi khí hậu thời gian gần đây, đặc biệt 6 tháng đầu năm 2016 hạn mặn xảy ra khốc liệt ở khắp miền châu thổ, đồng khô, lúa cháy, thiếu nước ngọt, xâm nhập mặn, xói mòn, làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của bà con miền sông nước không chỉ ở Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang, Tiền Giang, Sóc Trăng,... mà còn các địa phương nằm sâu trong nội đồng như Hậu Giang, Long An, Vĩnh Long. Một số nơi biến thành vùng đất chết, nắng nóng làm độ mặn tăng cao, nuôi trồng thủy sản bị dịch bệnh, nguy cơ cháy rừng ở mức độ cao, lượng nước ngầm khai thác tùy tiện, lượng nước ngọt thiếu hụt nghiêm trọng, nhiều nơi phải dựa vào nguồn nước hỗ trợ của chính quyền, quân đội chuyển đến cung cấp cho người dân... Những tháng cuối năm 2016, lũ không về, cả Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ không còn mùa nước nổi, cùng kiệt lượng phù sa, dẫn đến hiện tượng sạt lở đất xảy ra nghiêm trọng ảnh hưởng đến đời sống, vật chất, tinh thần cho người dân...
Các nhà khoa học đã dự báo trong thời gian tới, ở Đồng bằng sông Cửu Long hạn hán, bão lũ nhiều hơn, mùa khô sẽ thiếu nước ngọt trầm trọng, mùa mưa thì ngập lụt, 60% diện tích đồng bằng sẽ khát nước ngọt. Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở Việt Nam sẽ tăng từ 2-3 độ, mực nước biển sẽ dâng khoảng 75cm. Từ năm 2020 sẽ có 20 triệu dân ở đồng bằng ven biển bị ảnh hưởng trong đó có Đồng bằng Sông Cửu Long nếu như không có những biện pháp tích cực,...
Ngân hàng Thế giới đã xếp Việt Nam là một trong năm quốc gia sẽ phải đối mặt với an ninh lương thực và là nước chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn nhất thế giới.
Mặt khác dòng chảy và lượng phù sa ở Đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc vào dòng chảy của lưu vực sông Mê Kông, trong tương lai sẽ có 120 hồ chứa thủy nông trên khu vực ở thượng nguồn sông Mê Kông với dung tích 100 tỷ m3 nước sẽ làm giảm dòng chảy từ 15-20%, các đập thủy điện sẽ làm giảm khoảng 60% phù sa hàng năm. Nếu hồ chứa thủy nông và thủy điện hoạt động thì tổng lượng phù sa của Đồng bằng sông Cửu Long sẽ giảm đến 90%, dẫn đến phù sa gần như bị suy kiệt,...
Từ sự phân tích trên cho thấy những nhận định về Đồng bằng sông Cửu Long không còn phù hợp với thực tế hiện nay trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, cùng với sự khô kiệt của vùng hạ lưu sông Mê Kông đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, các địa phương và nhân dân phải thay đổi tư duy, phải dựa vào nội lực của chính mình, huy động sức mạnh của cộng đồng biến thách thức thành cơ hội để Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vựa lúa, vựa cá, vựa rau quả của Việt Nam. Muốn làm được điều đó phải:
Tập trung mọi nguồn lực để quản lý nguồn nước có hiệu quả, khẩn trương điều tra tổng thể tài nguyên nước ở Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm nước bề mặt, nước mưa, nước ngầm, nước từ nguồn sông Mê Kông,... Từ đó có quy hoạch, kế hoạch trong việc xây dựng hệ thống đê biển ngăn mặn, giữ ngọt, hệ thống thủy lợi, hồ chứa nước, trữ nước trong mùa mưa để cấp nước trong mùa khô. Nguồn nước ngầm có vai trò quan trọng, đòi hỏi phải điều tra, quy hoạch cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long để sử dụng hợp lý, khắc phục tình trạng hiện nay khai thác tự phát, làm gia tăng quá trình ô nhiễm trên bề mặt nhiễm mặn, sụt, lún nền đất (đây là vùng đất mới được bồi đắp). Ngoài hệ thống kênh rạch hiện có, cần quy hoạch, xây dựng mới kênh mương gắn liền với các nhánh sông đến các khu vực ven biển để cấp nước cho nông nghiệp, ngăn mặn xâm nhập, cung cấp nước ngọt cho cư dân và khu công nghiệp. Đồng thời vận động nhân dân trữ nước mưa, tiết kiệm nước, dùng máy lọc nước mặn thành nước ngọt ở nơi cần thiết; áp dụng công nghệ mới “tưới nhỏ giọt” trong canh tác; tái tạo nguồn nước, chấm dứt tình trạng sử dụng nước có 1 lần...
Cùng với đảm bảo nguồn nước cần đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng sống chung với biến đổi khí hậu và hạn mặn,... Tùy theo điều kiện từng vùng có điều chỉnh bố trí lại thời vụ cây trồng, vật nuôi cho phù hợp, bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn; đối với vùng nhiễm mặn nên nuôi các loại hải sản; vùng ven biển thường bị mặn xâm nhập sản xuất theo mô hình: nuôi hải sản trong vùng ngập mặn, nuôi tôm trong ruộng lúa; vùng đất pha cát thì trồng màu, cây ăn quả, vùng đất phù sa ven sông, kênh rạch bảo đảm có nước ngọt quanh năm thì trồng lúa năng suất cao...
Đồng thời tập trung mọi nguồn lực để nghiên cứu lai tạo các loại cây trồng vật nuôi chịu ngập, chịu mặn, chịu hạn, chịu nóng, phát triển được trên đất phèn, có năng suất cao, trong đó có giống lúa siêu chịu mặn, thời gian sinh trưởng ngắn, thích ứng với thời tiết cực đoan...
Ứng dụng khoa học công nghệ viễn thám phục vụ cho dự báo thiên tai, hạn hán, bão lụt...; áp dụng công nghệ tưới tiêu tiết kiệm nước, sử dụng nguồn nước có hiệu quả. Đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin trong xả lũ và điều tiết nước, cùng tuân thủ điều luật, thông lệ quốc tế với các nước có cùng chung nguồn nước ở sông Mê Kông. Huy động nguồn lực của thế giới, khu vực để hỗ trợ đầu tư vào hệ thống đê biển, trồng rừng ngập mặn và các hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục các hậu quả của biến đổi khí hậu...
Mặt khác các địa phương cần xây dựng các lực lượng chuyên nghiệp trong phòng chống thiên tai, hạn hán, bão lũ, sống chung với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng ngập mặn, bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân. Đồng thời phải tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động là nhiệm vụ hết sức cấp bách của cả khu vực. Hiện nay lực lượng lao động của Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 10,5 triệu người (tính từ 15 tuổi trở lên), trong đó mới có 11% qua đào tạo, số còn lại có xu hướng dịch chuyển đến làm việc ở các khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ...
Qua thực tế hạn mặn, lũ không về, “mùa nước nổi” biến mất ở Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã cho thấy liên kết vùng để phát triển là một yêu cầu tất yếu, là yếu tố sống còn của cả khu vực để sống chung với biến đổi khí hậu, là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của cư dân trên từng địa bàn. Muốn tồn tại và phát triển không có con đường nào khác phải phát huy nội lực của chính mình; phải liên kết vùng chặt chẽ để tạo ra sức mạnh cùng nhau sử dụng nguồn tài nguyên, nguồn nước, nguồn nhân lực, tái cơ cấu ngành nông nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, cùng nhau giải quyết kịp thời những bất cập của thảm họa thiên tai... để Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vựa lúa, vựa cá, vựa rau quả của Việt Nam, góp phần an ninh lương thực cho thế giới./.
TS. Hồ Văn Hoành
Phó Chủ tịch TW Hội Khoa học phát triển nguồn Nhân lực – Nhân tài Việt Nam