THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Thời gian qua, việc triển khai Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị đã thu được một số kết quả nhất định:
Một là, bổ sung nguồn vốn để phát triển kinh tế - xã hội.
Đến
nay, Việt Nam đã tiếp nhận đầu tư từ 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới, chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội, 55% tổng giá trị sản
xuất công nghiệp; hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. Dòng vốn ngoại đã hiện
diện ở hầu hết các địa phương trong cả nước với nhiều dự án được đầu tư
bởi những tên tuổi lớn toàn cầu, như Intel, Microsoft, Foxconn, Samsung,
Sanyo, Sony, Fujitsu, Toshiba, Panasonic..., góp phần hình thành một số
ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế, như dầu khí, điện tử, viễn
thông...
Tính
lũy kế đến ngày 20/1/2022, sau 35 năm “đón” vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã thu hút 34.642
dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký gần 415,6 tỷ USD. Vốn thực hiện
lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt trên 253,2 tỷ USD, bằng
gần 61% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Số liệu kinh tế 11 tháng
năm 2022 do Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, tổng vốn FDI vào Việt
Nam tính đến ngày 20-11-2022 đạt 25,14 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ
năm trước. So với mức giảm 5,4% của cùng kỳ tháng 10-2022, vốn FDI có sự
cải thiện nhất định khi nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy các thủ tục đăng
ký dự án.
Hai là, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy chuyển giao và phát triển công nghệ.
Năm 2021, doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho 4,6 triệu lao động, chiếm hơn 7% tổng số lao động của Việt Nam(1).
Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp, khu vực FDI cũng gián tiếp tạo việc
làm cho rất nhiều lao động trong các ngành công nghiệp hỗ trợ hay các
doanh nghiệp khác nằm trong chuỗi cung ứng hàng hóa cho các doanh nghiệp
FDI. Mức lương bình quân của lao động làm việc trong khu vực doanh
nghiệp có vốn FDI là 11,2 triệu đồng/tháng, cao hơn so với trong khu vực
nhà nước hoặc khu vực ngoài nhà nước và cao hơn mức trung bình của nền
kinh tế là khoảng 1,2 lần(2).
Khu
vực FDI cũng góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam thông qua hệ thống đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp hoặc liên
kết với các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp. Số liệu điều tra của Bộ
Lao độ#ng, Thương binh và Xã hội năm 2017 cho thấy, trên 57% doanh
nghiệp FDI thực hiện các chương trình đào tạo cho người lao động. Trong
đó, tự đào tạo chiếm 40%, liên kết với các cơ sở đào tạo chiếm 17%(3).
Điều này góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao
động trong doanh nghiệp FDI, tạo hiệu ứng tích cực, thúc đẩy nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực nói chung ở Việt Nam thông qua việc dịch
chuyển lao động từ khu vực FDI sang các khu vực còn lại.
Cùng
với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp FDI, nhiều máy móc, thiết bị,
công nghệ được nhập khẩu phục vụ sản xuất; các quy trình kỹ thuật, bí
quyết công nghệ và lý thuyết, kinh nghiệm quản lý được chuyển giao cho
các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý Việt Nam; nhiều công nhân kỹ
thuật, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý người Việt Nam có thể đảm đương
tốt các vị trí của lao động nước ngoài. Kết quả trên vừa đem lại lợi ích
cho doanh nghiệp khi chi phí nhân công Việt Nam thấp hơn nhiều so với
chi phí nhân công từ nước ngoài trong cùng một vị trí côngviệc, vừa rất
có lợi cho phát triển công nghệ và nguồn nhân lực của Việt Nam, nâng cao
năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Việc nhiều tập đoàn kinh
tế lớn có sản phẩm hàm lượng công nghệ cao đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc,
Mỹ... đầu tư vào Việt Nam, điển hình là Tập đoàn Samsung đặt mục tiêu
xây dựng cơ sở lớn nhất thế giới của Samsung tại Việt Nam và gần đây
nhất, xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phát triển lớn với 2.000 kỹ sư tuyển
dụng tại Việt Nam, tạo điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu và phát
triển công nghệ.
Ba là, thúc đẩy hội nhập có chiều sâu hơn.
Hội
nhập và đầu tư nước ngoài là hai mặt tương hỗ, kết quả hội nhập thúc
đẩy mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và ngược lại. Việc tích cực đàm phán, ký
kết các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới
trong thời gian qua đã giúp Việt Nam nâng tầm quan hệ kinh tế, thương
mại với các nước. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu quan tâm, chú ý
nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, qua đó, mở ra triển vọng hợp tác đầu
tư, kinh doanh giữa Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Mặc dù nội dung
cam kết trong các FTA chủ yếu liên quan đến vấn đề mở cửa thị trường
hàng hóa, cắt giảm thuế quan, song vẫn có những điều khoản liên quan
trực tiếp đến mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và chính sách đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Trong các lĩnh vực đầu tư có cam kết, Việt
Nam và các đối tác FTA đều khẳng định áp dụng những nguyên tắc quan
trọng, như không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài, không áp dụng một số biện pháp ảnh hưởng đến các nhà đầu tư,...
Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng mở rộng các lĩnh vực cho phép nhà đầu tư
của các đối tác FTA được đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam đang và sẽ tạo
sức hấp dẫn để thu hút đầu tư từ các nước đối tác FTA vào Việt Nam
trong thời gian tới. Với những cam kết đó, cơ hội mở rộng thị trường
xuất khẩu cho hàng hóa có xuất xứ Việt Nam ngày càng tăng lên, do vậy,
các doanh nghiệp FDI đang và sẽ đổ dồn về Việt Nam để tận dụng cơ hội
này.
Điều
quan trọng nhất khiến các FTA giúp Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI
đó là tác động của các FTA đối với thể chế kinh tế và môi trường kinh
doanh của Việt Nam. Chính việc thực thi các cam kết FTA đòi hỏi Chính
phủ Việt Nam phải tăng cường hơn nữa việc rà soát, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, xây dựng các chính sách, cơ chế mới để tạo môi trường kinh
doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, qua
đó tăng cường và đẩy mạnh việc thu hút FDI vào Việt Nam.
Bốn là, tạo mối liên kết với các doanh nghiệp trong nước.
Khu
vực FDI đã tạo các hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và quản lý, mang lại
lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước, khi
khu vực tư nhân Việt Nam ngày càng tích cực tham gia chuỗi cung ứng toàn
cầu. Từ năm 2016, các doanh nghiệp FDI ngày càng bớt phụ thuộc vào các
nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào tại nước xuất xứ. Tỷ lệ doanh nghiệp
FDI mua nguyên liệu đầu vào từ các doanh nghiệp tại nước xuất xứ đã giảm
dần từ 58,7% năm 2016 xuống 41,4% năm 2020. Cùng với đó, doanh nghiệp
FDI cũng giảm phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ nước thứ ba hơn so với 5
năm trước. Chỉ 26,8% doanh nghiệp FDI cho biết đã sử dụng nhà cung cấp
bên thứ ba trong năm 2020, so với 39% năm 2016(4).
Nhiều
doanh nghiệp Việt Nam đã hưởng lợi trực tiếp khi liên doanh, liên kết
với các doanh nghiệp FDI, tham gia chuỗi sản xuất hàng hóa xuất
khẩu. Đơn cử, số lượng nhà cung ứng cấp 1 của Samsung từ 35 doanh nghiệp
năm 2018 lên 50 doanh nghiệp năm 2020; số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng
tăng từ 157 lên 170 doanh nghiệp; 240 doanh nghiệp Việt Nam tham gia
mạng lưới cung ứng của Samsung. Toyota Việt Nam đến năm 2020 có tổng
cộng 33 nhà cung cấp thì đã có 5 nhà cung cấp Việt Nam (chiếm 15,15%)(5).
Bên cạnh một số kết quả thu được, việc triển khai Nghị quyết số 50-NQ/TW, của Bộ Chính trị còn một số hạn chế:
Thứ nhất, năng lực quản lý nhà nước đối với FDI còn thấp.
Trong
quản lý hiện nay, còn thiếu sự liên kết chặt chẽ, chưa thông tin đầy
đủ, kịp thời tình hình FDI trên từng địa bàn giữa các cơ quan quản lý
nhà nước ở địa phương cũng như giữa Trung ương với địa phương, giữa các
bộ, ngành với nhau.
Những
hiện tượng trốn thuế, chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI chưa thể
loại trừ triệt để cũng thể hiện sự yếu kém trong quản lý các dự án FDI.
Tỷ lệ doanh nghiệp FDI lỗ kéo dài chiếm tới 50 - 65%(6), và
phần lớn các liên doanh đã chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài là hiện tượng không bình thường, cho thấy có sự lạm dụng chính
sách ưu đãi và cơ chế “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà
nước. Những dự án gây ô nhiễm môi trường mà báo chí thời gian qua đã
phản ánh là bài học cảnh tỉnh rất đắt giá cho chúng ta. Những dự án công
nghệ rác, công nghệ lạc hậu vẫn tìm cách thâm nhập vào Việt Nam để lại
những hậu quả khôn lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển
bền vững.
Thứ hai, hiệu ứng lan tỏa và giá trị gia tăng của vốn FDI chưa thực sự cao.
Dù
vốn FDI thu hút đạt kỷ lục, song “hiệu ứng lan tỏa và giá trị gia tăng”
còn rất hạn chế, chủ yếu là các dự án thâm dụng lao động, có giá trị
gia tăng tương đối thấp, kéo theo dòng vốn FDI cao, nhưng giá trị gia
tăng trong nước lại tương đối thấp; việc làm có mức lương thấp; hiệu ứng
lan tỏa kém; lạm dụng ưu đãi; chênh lệch về kỹ năng,.. ngày càng lớn và
rủi ro rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Lâu nay, chúng ta thường
quảng bá “lợi thế lao động rẻ”, quá tập trung “tận dụng tối đa” lợi thế
tĩnh ngắn hạn của lao động sẽ vô cùng tai hại. Doanh nghiệp Việt Nam
chậm cải thiện năng lực cạnh tranh. Có thể thấy, đa số dự án FDI vào
Việt Nam chất lượng thấp, trong khi “chu kỳ sống” của một dự án FDI là
từ 20 đến 30 năm, thậm chí 40 năm. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam phải
chung sống với một cấu trúc kinh tế “tầm thấp” kéo dài 20 đến 30 năm
hoặc hơn. Nếu đa số dự án đó còn làm ăn thua lỗ thì tổn thất trực tiếp
càng lớn.
Công
nghiệp hỗ trợ và tham gia chuỗi giá trị sản xuất của các doanh nghiệp
Việt Nam còn nhiều hạn chế. Sau 35 năm thu hút vốn FDI, kết nối giữa các
nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn mờ nhạt, hiệu ứng lan tỏa về công
nghệ và năng suất lao động từ đối tác nước ngoài đến doanh nghiệp trong
nước còn chưa đạt hiệu quả. Sự liên kết yếu thể hiện trước hết ở tỷ lệ
khoảng 80% số doanh nghiệp FDI là 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó, việc
liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước vẫn tiến
triển khá chậm(7).
Tình
trạng liên kết yếu còn thể hiện qua tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn còn thấp. Cụ thể, đối với các doanh
nghiệp cung ứng sản phẩm phụ tùng linh kiện ô-tô, phần lớn doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ mới chỉ cung ứng sản phẩm cho lắp ráp ô-tô trong
nước. Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), tỷ lệ nội địa hóa đối với
xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, bình quân khoảng 7 - 10%; trong khi
mục tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, 40 - 45% vào năm 2025 và 50 -
55% vào năm 2030(8). Hay, tỷ lệ nội địa hóa của ngành điện tử
hiện mới đạt 5 - 10%. Các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa
số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng phần lớn
các linh kiện nhập khẩu. Trong khi đó, mục tiêu đến năm 2025, ngành điện
tử phải nội địa hóa đến 45%, đây là mục tiêu đầy thách thức(9).
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do năng lực các doanh nghiệp
nội địa trong ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng
được yêu cầu cao của thị trường cũng như của các doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, dành quá nhiều “ưu đãi” cho nhà đầu tư nước ngoài làm giảm nguồn thu từ thuế.
Khi
kêu gọi vốn FDI, có hiện tượng các địa phương chấp nhận kiểu cạnh tranh
“cùng xuống đáy”. Địa phương nào dành nhiều ưu đãi, “thông thoáng” hơn
trong các điều kiện ràng buộc thì dễ được nhà đầu tư chọn vào. Để giành
phần thắng trong cạnh tranh, địa phương đã chấp nhận trả “giá” cao, đánh
đổi lợi ích. Địa phương sẽ tăng được GDP, tạo thêm việc làm, tăng ngân
sách, nhưng lại bị tổn thất dài hạn. Thời gian qua, nhiều địa phương vẫn
còn nặng tư duy về số lượng nên đã dành nhiều ưu đãi để thu hút nhà đầu
tư. Sự chênh lệch về thuế suất giữa các quốc gia, giữa những đối tượng
khác nhau trong một quốc gia, những quy định về mức thuế suất ưu đãi,
miễn, giảm thuế... đã tạo động cơ tránh thuế, không chỉ với doanh nghiệp
FDI, mà cả các doanh nghiệp trong nước và tạo “kẽ hở” để doanh nghiệp
thực hiện hành vi chuyển giá. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là
do cơ chế, chính sách của chúng ta còn có những hạn chế.
Sản xuất ô tô du lịch tại nhà máy lắp ráp ô tô Ford Hải Dương. (Ảnh: TTXVN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Một là, cần đổi mới cách xúc tiến đầu tư.
Để
cải thiện thu hút FDI, Việt Nam cần thay đổi tư duy trong thu hút đầu
tư nước ngoài. Theo đó, cần thay đổi cơ bản về định hướng đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là cần xúc tiến đầu tư có mục tiêu phù hợp, thật thiết
thực, không xúc tiến đầu tư theo kiểu đại trà. “Chiến lược thu hút FDI
thế hệ mới” là sự chuyển dịch trọng tâm từ thu hút nhà đầu tư phù hợp
cho “sản phẩm” sang phát triển sản phẩm phù hợp (tức là môi trường kinh
doanh và điều kiện đầu tư phù hợp) cho loại hình đầu tư mà Việt Nam cần
trong tương lai. Những năm gần đây, nhiều địa phương đã nói không với
các dự án nhỏ, công nghệ lạc hậu. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng không
còn đem dự án đi “mặc cả” ở nhiều tỉnh, thành phố để so bì ưu đãi. Có
rất nhiều dự án nếu địa phương “gật đầu”, nhà đầu tư sẵn sàng vào rất
nhanh, như dệt may, da giày, nhưng không được lựa chọn vì chưa đáp ứng
được các yêu cầu của “bộ lọc” mới. Định hướng thu hút vốn FDI thế hệ mới
hướng đến các dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghiệp ô-tô,
xe máy và công nghiệp hỗ trợ, máy móc, thiết bị công nghiệp, logistics,
sản phẩm nông nghiệp mới giá trị cao, công nghệ môi trường, năng lượng
tái tạo, dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính và giáo
dục.
Trình
độ phát triển giữa các địa phương trong cả nước còn khác nhau nên cần
thu hút FDI cân đối, hợp lý giữa các vùng, miền phù hợp với quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn tới. Do vậy, chúng
ta cần có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ nguồn vốn FDI. Những
địa phương có kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và nguồn nhân lực có
chất lượng nên tập trung thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ mới,
dự án nghiên cứu phát triển, dịch vụ hiện đại. Những địa phương có điều
kiện còn khó khăn, vẫn tiếp tục thu hút các dự án FDI vào những ngành
thâm dụng lao động, nhưng phải bảo đảm các điều kiện về công nghệ, môi
trường, tiết kiệm năng lượng.
Danh
mục các dự án quốc gia gọi vốn FDI sẽ xác định rõ từng loại dự án quy
mô lớn theo ngành trên từng địa bàn cụ thể, vừa rõ ràng, minh bạch với
các nhà đầu tư nước ngoài, vừa tránh được sự cạnh tranh chạy dự án giữa
các địa phương, giữa các nhà đầu tư,... làm xấu và giảm sức cạnh tranh
của môi trường đầu tư của Việt Nam. Về đối tác, cần định hướng ưu tiên
thu hút các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở và thành lập các trung tâm
nghiên cứu phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, khuyến
khích chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản trị cho doanh nghiệp Việt
Nam. Duy trì sức hút đối với các thị trường và đối tác truyền thống,
đồng thời mở rộng hợp tác với các thị trường, đối tác giàu tiềm năng
khác.
Hai là, tránh dành ưu đãi quá nhiều, không hợp lý cho nhà đầu tư nước ngoài.
Việc
chuyển hướng thương mại, dòng vốn đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu sau
dịch bệnh COVID-19 đang đặt ra nhiều thách thức đối với hệ thống thuế
của Việt Nam, nhất là khi Việt Nam đang có xu hướng sử dụng ưu đãi thuế
như một công cụ khuyến khích đầu tư trong nước cũng như thu hút FDI để
tạo cạnh tranh hơn là hợp tác với các nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Hiện
nay, nhiều tập đoàn đa quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam có thể hưởng
mức thuế suất là 10%, thấp bằng một nửa so với mức thuế suất phổ thông
20%. Việc thu hút FDI là cần thiết, tạo cú hích cho kinh tế phát triển,
nhưng ưu đãi quá nhiều hay thu hút FDI bằng mọi giá, tạo nên gánh nặng
cho nền kinh tế cũng như sự bất bình đẳng nhất định trong môi trường
kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp FDI từ
các quốc gia lớn đều có rất nhiều kinh nghiệm trong việc tiến hành hoạt
động kinh doanh; nếu chúng ta ưu đãi thuế khi chưa có hệ thống đủ mạnh
thì không thể chống được tình trạng việc trốn, tránh thuế. Trong “Báo
cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2020” với chủ đề “Củng cố điểm tựa tài
khóa cho phát triển” của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
cho thấy, mức thất thu thuế mỗi năm từ khu vực FDI ước tính lên từ 8.000
tỷ đồng - 9.000 tỷ đồng, tương đương từ 4 - 4,5% số thu thuế thu nhập
doanh nghiệp. Còn từ khu vực ngoài nhà nước có thể lên tới 10.500 tỷ
đồng, tương đương 5% số thu thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chính
vì vậy, Chính phủ cần phải có lựa chọn nhất định trong việc áp dụng ưu
đãi, không tràn lan, cần có ưu tiên trong ưu đãi thuế đối với doanh
nghiệp FDI. Các ưu đãi hào phóng và dư thừa cần được loại bỏ, tạo môi
trường kinh doanh công bằng, tạo điều kiện cho nhiều cá nhân, tổ chức
tham gia hoạt động kinh tế, đóng góp vào quá trình đổi mới nền kinh tế.
Ba là, cần chuẩn bị tốt các điều kiện để thu hút được các dự án có chất lượng cao.
Trong
thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về thu hút
FDI để nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI; đồng
thời, cần sự vào cuộc chủ động, mạnh mẽ, đồng bộ và thực chất của các
bộ, ngành, địa phương nhằm kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh công
bằng, thông thoáng và minh bạch. Theo đó, chú trọng công tác giám sát,
đánh giá dự án FDI, nhất là tình trạng đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”
dưới hình thức thông qua cá nhân Việt Nam lập doanh nghiệp bất động sản,
góp vốn dưới 49%; cho cá nhân Việt Nam vay tiền để thành lập doanh
nghiệp... Giải pháp cho vấn đề này là đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn
thiện hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài để có cơ sở dữ
liệu đầy đủ nhằm đánh giá một cách nghiêm túc và chuẩn xác về hiệu quả
FDI tại Việt Nam.
Tránh
hiện tượng thể chế, luật pháp liên quan chưa hoàn chỉnh, chồng chéo,
thực thi không nghiêm nên một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng kẽ hở
pháp luật để trục lợi, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng” trong những
ngành và lĩnh vực hạn chế FDI. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp có
liên quan đến FDI, trong đó có chủ trương về việc áp dụng thuế tối
thiểu toàn cầu tại Việt Nam.
Cải
thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, rà soát hệ thống chính sách về
đầu tư, hỗ trợ nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn; tăng cường quản lý nhà nước
về FDI từ khâu xúc tiến, thẩm định, triển khai dự án tới khâu kiểm tra,
giám sát thực hiện. Chính phủ cần sớm ban hành Quyết định về bộ tiêu chí
đánh giá hiệu quả khu vực FDI. Bộ tiêu chí đánh giá đang xây dựng gồm
có 26 chỉ tiêu cụ thể về kinh tế, xã hội, môi trường, công nghệ... sẽ
làm căn cứ cho nhà đầu tư nước ngoài có thể tự chấm điểm và các địa
phương tiếp nhận đầu tư có căn cứ sàng lọc dự án.
Cần
chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề kỹ thuật cao.
Nếu lao động chỉ biết mỗi lắp ráp với gia công thì rất khó mời những nhà
đầu tư tốt, những nhà đầu tư phần mềm kinh tế số hay sản xuất những sản
phẩm tinh xảo hoặc những nhà đầu tư đầu chuỗi. Đào tạo phát triển nguồn
nhân lực cũng là lĩnh vực rất cần quan tâm trong thời gian tới. Nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ
thuật lành nghề phải là bệ đỡ cho làn sóng đầu tư mới. Hiện nay, các nhà
đầu tư đang gặp khó khăn khi không tuyển được lao động kỹ thuật trong
nước đáp ứng yêu cầu, phải trông chờ vào nhập khẩu chuyên gia, kỹ thuật
viên từ ngoài nước, nhưng những quy định và thủ tục trong lĩnh vực này
còn phiền hà, phức tạp. Chúng ta hạn chế nhập khẩu lao động phổ thông là
hợp lẽ, nhưng gây khó dễ cho tuyển dụng lao động kỹ thuật cao từ ngoài
nước khi cần thiết sẽ cản trở kế hoạch mở rộng đầu tư vào Việt Nam của
các doanh nghiệp FDI trong những lĩnh vực tiềm năng. Địa phương muốn kéo
doanh nghiệp FDI tốt thì phải đánh giá được khả năng thu hút nhân lực
của mình. Khi đó, mới mong kêu gọi các dự án FDI cho “đúng tầm”.
Bốn là, kết cấu hạ tầng kết nối đồng bộ.
Nếu
đường sá kém chất lượng, kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, đô thị không
tốt, hệ thống pháp lý, điều kiện văn hóa cho nhà đầu tư không phù hợp
thì rất khó kêu gọi được dự án FDI tốt. Nhiều khu công nghiệp đã hình
thành, chúng ta thường chỉ thấy đất, thấy đường, thấy mặt bằng, nhà
xưởng.., chưa thấy dịch vụ, thấy không gian sống và hệ sinh thái cho sản
xuất, kinh doanh. Khu công nghiệp không chỉ là nhà xưởng, mà còn là hệ
sinh thái tích hợp được các điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh
doanh, đặc biệt là hệ sinh thái có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo.../.
TS. HOÀNG NGỌC HẢI - TS. HỒ THANH THỦY
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
___________________
(1) Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: Báo cáo thường niên về đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2021.
(2) Bộ Kế hoạch - Đầu tư: Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020.
(3) Đỗ Thị Thu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, http://mof.gov.vn/dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-va-van-de-phat-trien-kinh-te.html.
(4) (7) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Báo cáo “Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam”, ngày 12/3/2021.
(5) An Nhiên: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực, https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-da-co-nhung-buoc-chuyen-minh-tich-cuc.html.
(6) Số liệu trích dẫn theo Báo cáo của Bộ Tài chính gửi tới Thủ tướng Chính phủ, tháng 2/2022.
(8) Thực trạng phát triển của công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô Việt Nam, https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/thuc-trang-phat-trien-cua-cnht-nganh-o-to-viet-nam.html.
(9) Thùy An: Tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử Việt Nam chỉ đạt 5 - 10%, https://vtv.vn/kinh-te/ti-le-noi-dia-hoa-nganh-dien-tu-viet-nam-chi-dat-5-10-20210415145803963.htm.
(Nguồn: TC Cộng sản)