CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
Định
hướng chiến lược phát triển thương mại của Việt Nam được xây dựng qua
các kỳ đại hội Đảng gắn liền với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và
tăng trưởng, phát triển kinh tế của đất nước, thể hiện qua hai giai
đoạn:
Ở giai đoạn mở cửa và lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, từ
Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội X (năm 2005): Đây là giai đoạn Đảng
và Nhà nước ta xác định xuất khẩu là một trong những trọng tâm của mô
hình tăng trưởng kinh tế. Theo đó, Đảng đã xác định: Chuyển chiến lược
công nghiệp hóa theo cách hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng
mô hình hỗn hợp, hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu; đề
ra ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu. Trong đó, chương trình hàng xuất khẩu được xác định là
mũi nhọn, có ý nghĩa quyết định đối với nhiều mục tiêu kinh tế trong 5
năm (1986 - 1990) và khâu chủ yếu của toàn bộ quan hệ kinh tế đối ngoại,
đặt trọng tâm xuất khẩu phải trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả
các ngành, các cấp với mục tiêu tăng nhanh khối lượng xuất khẩu, đáp
ứng được nhu cầu nhập khẩu. Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta
đề ra chủ trương: Xây dựng một nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế
giới, hướng mạnh về xuất khẩu. Trong giai đoạn này, do quy mô nền kinh
tế còn hạn chế, thu nhập đầu người còn thấp nên thị trường trong nước
chưa có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.
Ở giai đoạn cơ cấu lại và điều chỉnh mô hình tăng trưởng gắn phát triển xuất khẩu với mở rộng thị trường trong nước: Từ
Đại hội XI (năm 2011) của Đảng đến nay, với việc gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 và quá trình tích lũy tăng trưởng
từ giai đoạn trước, đã đóng góp quan trọng trong việc mở rộng không
gian tăng trưởng và đặt ra yêu cầu về cấu trúc lại nền kinh tế để phù
hợp với bối cảnh mới và sự gia tăng nhanh chóng của khu vực thị trường
trong nước. Theo đó, tại Đại hội XI, Đảng ta chủ trương: Chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu dựa theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả; từ đó, cụ thể hóa thành các định hướng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “Mở
rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong nước; đa dạng
hóa thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp
định mậu dịch tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu, giảm
nhập siêu cả quy mô và tỷ trọng, phấn đấu cân bằng xuất, nhập khẩu. Chủ
động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống
phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước,
xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam”(1). Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định: “Đổi
mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn
đầu tư sang phát triển đồng thời dựa vào cả vốn đầu tư, xuất khẩu và
thị trường trong nước”(2).
Thực
hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã cụ thể hóa thành hệ
thống khung khổ pháp luật và chính sách đồng bộ để triển khai thực hiện
với một số luật, chính sách quan trọng(3), góp phần định hình
hệ thống khung khổ chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
thương mại và sự tham gia của các thành phần kinh tế trong phát triển
thương mại.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Thời gian qua, hoạt động thương mại ở Việt Nam phát triển nhanh, xếp
thứ ba (sau In-đô-nê-xi-a và Thái Lan) trong khu vực Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) về quy mô bán lẻ và thương mại điện tử, trở thành
một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, đạt được nhiều
kết quả.
Những kết quả đạt được:
1 - Về phát triển xuất khẩu.
Thương
mại quốc tế với đóng góp tích cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, với 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết và thực thi, đã
mở rộng không gian và động lực tăng trưởng cho xuất khẩu và là điểm sáng
trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua, trong đó có các
kết quả nổi bật:
Một là,
quy mô xuất khẩu liên tục được mở rộng, tỷ trọng so với tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng từ 71,5% năm 2011 lên 104,2% năm 2020 (nếu tính cả
nhập khẩu thì tỷ trọng xuất, nhập khẩu/GDP tăng tương ứng từ 134,53%
lên 204,2%) và đạt tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2022 là 731,3 tỷ
USD; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt gần 12%/năm, cao hơn gần 5 lần so
với mức bình quân toàn cầu và cao hơn các đối tác cạnh tranh chính và
các quốc gia trong khu vực; từng bước đưa Việt Nam trở thành một trong
những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới, với quy mô xuất khẩu đứng
thứ 20 trên thế giới (năm 2020) và thứ hai (sau Xin-ga-po) trong ASEAN;
đứng thứ 17 về xuất khẩu mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (năm
2020) và nằm trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới đối với
nhiều mặt hàng, như dệt may, da giày, gạo, điện thoại di động,...
Hai là,
cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch ngày càng tích cực, bền vững
và hướng vào lõi công nghiệp hóa, đã thể hiện được sức chống chịu tốt
hơn trong những thời điểm khó khăn của thương mại thế giới và khu vực;
trong đó: Cơ cấu ngành hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng
giảm mạnh mặt hàng xuất khẩu thô, hàm lượng chế biến thấp (tỷ trọng xuất
khẩu của nhóm nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 11,6% năm 2011 xuống còn
khoảng hơn 1,3% năm 2022); tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế
tạo (từ 61,3% năm 2011 lên 86% năm 2022) và các sản phẩm công nghiệp
công nghệ cao (lên 41,4% năm 2015 và lên khoảng hơn 48% năm 2022). Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ngày càng đa dạng, đóng góp quan trọng trong việc duy trì và cải thiện tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Cơ cấu thị trường xuất
khẩu cũng có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu vào các
thị trường có FTA và có yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa. Cơ cấu về thành phần xuất khẩu chuyển dịch theo hướng gia tăng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Ba là, Việt
Nam ngày càng tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và chuyển
thành công từ một quốc gia nhập siêu sang xuất siêu với mức thặng dư
thương mại năm sau cao hơn năm trước và đạt mức kỷ lục vào năm 2022 (đạt
12,4 tỷ USD); trong đó, chủ yếu xuất siêu sang các khu vực thị trường
có tiêu chuẩn cao, như Mỹ và châu Âu, góp phần tích cực làm lành mạnh
cán cân thanh toán và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo động lực trực tiếp thúc
đẩy khu vực sản xuất, kinh doanh trong nước.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng
Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và các đại biểu tham quan vườn vải thiều
xuất khẩu tại xã Thanh Quang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (Nguồn: tapchicongthuong.vn)
2 - Về phát triển thị trường trong nước.
Thương
mại trong nước đạt được một số thành tựu nổi bật, trở thành động lực
tăng trưởng mới của ngành, qua đó cùng với xuất khẩu thực sự trở thành
trụ đỡ quan trọng, bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đặc
biệt là trong những giai đoạn gặp khó khăn từ thị trường bên ngoài. Cụ
thể:
Thứ nhất,
thị trường trong nước phát triển mạnh mẽ và tiếp tục duy trì là ngành
có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp ngày càng lớn trong GDP, với tỷ lệ
phân phối hàng hóa Việt Nam qua hệ thống phân phối bán lẻ luôn trên 80%, góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, gắn liền với phát triển thương hiệu hàng Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang trở thành địa bàn có mức độ hấp dẫn đầu tư lớn,
thuộc nhóm các quốc gia có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu, xếp
thứ 3 (sau In-đô-nê-xi-a và Thái Lan) trong khu vực ASEAN về quy mô bán
lẻ. Theo đó, hình thành được hệ thống thị trường thống nhất và ổn định
trong toàn quốc, với mạng lưới tổ chức phân phối hàng hóa, nhất là hàng
hóa thiết yếu một cách khá chặt chẽ, gắn kết sản xuất - chế biến với thị
trường và tiêu dùng. Đội ngũ thương nhân ngày càng phát triển lớn mạnh.
Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch vụ phủ rộng khắp từ thành thị đến
nông thôn và miền núi, hải đảo, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu
thụ, hàng hóa với thị trường trong nước.
Thứ hai,
phát triển thị trường trong nước từng bước phù hợp với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của
người dân: Kết cấu hạ tầng thương mại có sự chuyển biến theo
hướng văn minh, hiện đại, với số lượng siêu thị và trung tâm thương mại
tăng gần 2 lần trong 10 năm qua gắn với chuyển dịch cơ cấu chủ sở hữu hệ
thống kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng đa dạng, với sự tham gia của
nhiều doanh nghiệp ở khu vực ngoài nhà nước cùng với sự lớn mạnh của
một số doanh nghiệp phân phối lớn trong nước, góp phần hiện đại hóa
ngành bán lẻ và chuyển dịch cơ cấu phân phối hàng hóa sang các
kênh phân phối hiện đại, từng bước góp phần bảo đảm các yêu cầu về chất
lượng và vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với hàng hóa lưu thông trên thị
trường.
Thứ ba,
công tác kết nối cung - cầu cơ bản được thực hiện tốt. Các chương trình
dự trữ hàng hóa bình ổn thị trường tiếp tục được duy trì và từng bước
mở rộng theo hình thức xã hội hóa, tạo thuận lợi cho sản xuất. Công tác
điều hành giá cả hàng hóa, nhất là hàng hóa thiết yếu, cơ bản bám sát
theo tín hiệu thị trường, góp phần bình ổn giá và kiểm soát lạm phát
theo mục tiêu.
Thứ tư,
thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh phân phối quan
trọng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2020 đạt
27%/năm, chiếm xấp xỉ 7% quy mô thị trường bán lẻ trong nước, đạt cao
nhất trong nhóm các nước ASEAN và được xếp vào nhóm 5 quốc gia có tốc độ
tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới, góp phần hiện đại hóa
hệ thống phân phối, tạo động lực phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ năm,
trật tự, kỷ cương trên thị trường đang từng bước được xác lập, hạn chế
các vi phạm pháp luật trong hoạt động phân phối, tiêu thụ hàng hóa. Công
tác quản lý thị trường, xử lý cạnh tranh; phòng vệ thương mại và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm vệ sinh, an toàn đối với hàng hóa
lưu thông trong nước ngày càng được củng cố, góp phần lành mạnh hóa và
nâng cao chất lượng thị trường.
Một số hạn chế và nguyên nhân:
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thương mại Việt Nam đã và
đang đối mặt với nhiều thách thức, như xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung ở
phân khúc giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); quy mô thị trường trong nước còn
nhỏ, chưa khai thác hiệu quả về quy mô của một quốc gia có 100 triệu
dân; hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại chưa đồng bộ, hiện đại, đặc
biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi,... Cụ thể:
1 - Đối với phát triển thị trường xuất khẩu.
Xuất
khẩu phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu nguyên phụ
liệu (chiếm trên 90% tổng kim ngạch nhập khẩu) dẫn đến giá trị gia tăng
xuất khẩu thấp và giảm dần qua các năm (trong khi Trung Quốc và các nước
ASEAN tăng dần qua các năm), khiến hàng hóa Việt Nam phải tăng giá
thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh, dễ gặp bất lợi mỗi khi giá thế
giới biến động tăng.
Chất
lượng hàng hóa nhìn chung chưa đáp ứng tốt các quy định, tiêu chuẩn của
các thị trường do năng lực của doanh nghiệp còn hạn chế; chưa tận dụng
hiệu quả thuế quan ưu đãi từ các FTA (trung bình tỷ lệ sử dụng thuế quan
ưu đãi cho tất cả FTA đã ký, có hiệu lực là 33 - 37% và chỉ tăng nhẹ
trong giai đoạn 2015 - 2020) do các ngành công nghiệp cung cấp tư liệu,
linh kiện cho sản xuất hàng xuất khẩu chưa phát triển để khai thác một
cách hiệu quả các cam kết về nguyên tắc xuất xứ. Chi phí sản xuất và
thương mại đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam đang ngày càng
tăng và cao hơn mức trung bình của ASEAN về chi phí logistics và chi phí
tuân thủ các biện pháp phi thuế quan (chi phí hải quan, chi phí tại các
cảng, quản lý chuyên ngành,...); năng lực cung cấp dịch vụ logistics
của các doanh nghiệp còn hạn chế, chủ yếu là các doanh nghiệp đa quốc
gia.
Bên
cạnh đó, mức độ đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, chủ thể xuất khẩu
chưa cao và chậm thay đổi. Xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào một số khu
vực thị trường, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Liên minh
châu Âu (EU). Khu vực doanh nghiệp FDI vẫn là động lực chính trong xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam, nắm giữ chủ yếu về nguồn cung nguyên liệu,
máy móc, thiết bị, sản xuất, thị trường và khách hàng.
Ngoài
ra, Việt Nam chưa khai thác tốt tiềm năng xuất khẩu tại các thị trường
và mặt hàng xuất khẩu; một số mặt hàng xuất khẩu, như hàng hóa môi
trường, các sản phẩm Halal sang các thị trường người Hồi giáo và sản
phẩm Kosher sang thị trường người Do Thái,... và các thị trường chưa có
FTA, như khu vực châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh, Bắc Âu, Đông Âu (mới chỉ
chiếm khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu) vẫn còn nhiều dư địa để phát
triển; các thị trường có các FTA, các nước có chung đường biên giới và
các kênh xuất khẩu mới, như thương mại điện tử xuyên biên giới, xuất
khẩu qua hệ thống phân phối ở nước ngoài, vẫn còn nhiều tiềm năng để đẩy
mạnh xuất khẩu.
Thêm
vào đó, quản lý nhập khẩu của Việt Nam còn bất cập, vẫn tiếp tục nhập
khẩu hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng chủ yếu từ các thị
trường công nghệ thấp của châu Á; việc xây dựng và thực thi các công cụ
kiểm soát chất lượng hàng hóa nhập khẩu, công nghệ nhập khẩu, nhập khẩu
biên mậu chưa thực sự hiệu quả.
2 - Đối với phát triển thị trường trong nước.
Dung
lượng của thị trường trong nước còn thấp, chỉ chưa bằng 1/2 lần thị
trường xuất khẩu và đang ngày càng bị doãng ra (tỷ trọng thị trường
trong nước so với xuất khẩu giảm từ 77,2% năm 2011 xuống còn khoảng
58,51% vào năm 2020); sức mua trong nước còn hạn chế do thu
nhập bình quân đầu người vẫn còn thấp và chưa có các trung tâm mua sắm
mang tầm quốc tế như một số quốc gia trong khu vực (Thái Lan, Xin-ga-po)
để khai thác nhu cầu của thế giới.
Hệ
thống phân phối hiện đại mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với quy mô hàng hóa lưu thông qua hệ thống này
chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu bán lẻ (khoảng 10%) so với các nước
phát triển (trên 70%); chi tiêu bình quân đầu người qua hệ thống này mới
đạt khoảng 38 USD/năm, thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Các
loại hình và phương thức kinh doanh thương mại hiện đại (sàn giao dịch
hàng hóa, trung tâm đấu giá,...) chưa phát triển, chưa khai thác được
lợi ích tối đa của thương mại điện tử; kết cấu hạ tầng thương mại các
vùng nông thôn, miền núi nhìn chung còn hạn chế và chậm được cải thiện.
Các
chủ thể tham gia phát triển thị trường trong nước còn manh mún với sự
chiếm lĩnh của kênh phân phối truyền thống (xấp xỉ 90% quy mô thị
trường) đã hạn chế việc phát triển của hệ thống phân phối chuyên nghiệp
với sự dẫn dắt của một số tập đoàn phân phối lớn theo mô hình chuỗi cung
ứng, kết nối giữa sản xuất với thị trường; hệ thống các quy định về
tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa áp dụng cho các nhà bán lẻ chưa được quan
tâm đúng mức.
Bên
cạnh đó, thương mại điện tử mặc dù đang tăng trưởng nhanh, nhưng quy mô
thị trường thương mại điện tử còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với quy mô của
toàn thị trường bán lẻ (chỉ chiếm khoảng 7% toàn thị trường) và thấp hơn
nhiều so với mức trung bình toàn cầu (là 11 - 14%); thanh toán điện tử
trong thương mại điện tử chưa tương xứng với tiềm năng phát triển; công
tác quản lý các hoạt động mua, bán trên thị trường thương mại điện tử
còn hạn chế dẫn đến thất thu thuế, tình trạng hàng hóa xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ cũng xuất hiện ngày càng nhiều trên các gian hàng trực
tuyến, đặc biệt các sàn thương mại điện tử và các mạng xã hội. Ngoài ra,
công tác kiểm soát thị trường trong nước vẫn còn nhiều bất cập; tình
hình buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, vi
phạm cạnh tranh và quyền lợi người tiêu dùng còn diễn biến phức tạp.
Nguyên nhân hạn chế:
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, cụ thể:
Việc
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phát triển thương mại còn chưa thực sự được quán triệt xuyên
suốt và nhất quán trong chỉ đạo, điều hành ở các cấp, nhất là ở các địa
phương; chưa xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá và cơ chế theo dõi,
giám sát. Công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong thực hiện
nhiệm vụ, đặc biệt là các nhiệm vụ có tính chất liên ngành, liên vùng và
đa lĩnh vực còn hạn chế.
Hệ
thống thể chế, chính sách, pháp luật phát triển ngành chưa đủ mạnh,
chưa kết nối một cách hiệu quả giữa các ngành, lĩnh vực để hỗ trợ cho
phát triển thị trường; việc điều chỉnh khung chính sách, pháp luật về
thương mại để phù hợp với các FTA đã ký kết còn chậm; thiếu các cơ chế,
chính sách mang tính trọng tâm, đột phá để hỗ trợ phát triển các ngành,
lĩnh vực ưu tiên.
Mô
hình tăng trưởng chậm thích ứng với các đổi mới, như đổi mới sáng tạo,
phát triển bền vững, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, thuận lợi
hóa thương mại...; năng lực xử lý các cú sốc từ bên ngoài (xung đột
thương mại, đại dịch COVID-19), nhất là cân bằng giữa sản xuất và thương
mại gắn với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và các vấn đề mang tính
liên ngành, liên vùng (logistics, chuỗi giá trị, cụm ngành công
nghiệp,...) có lúc, có việc còn chậm.
Năng
lực thực thi hội nhập chưa cao, chủ yếu tập trung vào chiều rộng; chưa
tận dụng tốt các cam kết quốc tế để thúc đẩy cải cách thể chế, cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh để phân bổ các nguồn lực một cách hiệu
quả, khơi thông sản xuất và tận dụng tốt các cơ hội thị trường do hội
nhập mang lại...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Thời
gian tới, tình hình thế giới được dự báo sẽ tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó lường; xung đột địa - chính trị và cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn ngày càng gay gắt; chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa
bảo hộ của một số đối tác thương mại lớn của Việt Nam có xu hướng gia
tăng; sức ép lạm phát và tăng lãi suất cùng với chính sách tiền tệ thắt
chặt ở nhiều quốc gia dẫn tới tổng cầu giảm, đặc biệt là hàng hóa nước
ta sẽ bị cạnh tranh gay gắt hơn khi một số nước xuất khẩu đang dần mở
cửa lại nền kinh tế sau khi khống chế được đại dịch COVID-19. Bên cạnh
đó, các nước phát triển ngày càng dựng lên những tiêu chuẩn, quy định
mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu sạch, lao động, môi trường
đối với các sản phẩm nhập khẩu; các nguy cơ về sự thiếu ổn định của
chuỗi cung ứng, biến động giá cả hàng hóa cùng với các rủi ro an ninh
phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt
tài nguyên, thiên tai, dịch bệnh, nghèo đói,...) dẫn đến rủi ro
suy giảm kinh tế toàn cầu sẽ là những tác động không thuận lợi đối với
hoạt động thương mại toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong
bối cảnh đó, để phát huy những thành tựu đạt được; xử lý có hiệu quả
những hạn chế đã được nhận diện nhằm khơi thông, thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ thị trường trong nước gắn với đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung triển khai thực hiện tốt các
nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại chiến lược, kế hoạch, đề án về cơ cấu lại
nền kinh tế và cơ cấu lại ngành, phát triển thương mại trong nước và
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa quốc gia giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến
năm 2045; trong đó, ngành công thương cần tập trung thực hiện đồng bộ,
hiệu quả những giải pháp trọng tâm sau:
Về phát triển xuất khẩu:
Một là, tập
trung theo sát diễn biến của kinh tế thế giới, nhất là các điều chỉnh
chính sách của các nền kinh tế lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu
Âu (EU), Nhật Bản,... có tác động mạnh tới thương mại của Việt Nam để có
những phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả nhằm hỗ trợ cộng đồng
doanh nghiệp trong nước điều chỉnh chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh
doanh phù hợp.
Hai là, chú
trọng phát triển các thị trường khu vực Bắc Âu, Đông Âu, Mỹ La-tinh còn
nhiều dư địa khai thác. Quyết liệt đột phá vào các thị trường mới, nơi
có tầng lớp trung lưu gia tăng, như các thị trường mới nổi E7 (Trung
Quốc, Ấn Độ, Bra-xin, Nga, Mê-xi-cô, In-đô-nê-xi-a và Thổ Nhĩ Kỳ); thị
trường Halal (Trung Đông, Ma-lai-xi-a, Bru-nây). Sớm hoàn tất thủ tục
phê chuẩn để ký kết, đưa vào thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa
Việt Nam với I-xra-en. Thúc đẩy đàm phán FTA với các nước Khối Thị
trường chung Nam Mỹ (Mercosur), như Bra-xin, Ác-hen-ti-na, U-ru-goay,
Pa-ra-goay để khai thác, mở rộng thị trường Mỹ La-tinh. Hướng đến các
thị trường mới, nhiều tiềm năng, như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và Đông
Âu,... Tranh thủ sự hồi phục nhanh của các thị trường khu vực ASEAN và
một số nước châu Á để đẩy mạnh xuất khẩu.
Ba là, đẩy
mạnh triển khai hiệu quả “Đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu trực tiếp vào mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030” được Thủ
tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1415/QĐ-TTg, ngày 14-11-2022;
đồng thời, tập trung xây dựng Chiến lược phát triển các thị trường đến
năm 2030 để có định hướng tổ chức thực hiện bài bản, hiệu quả.
Bốn là, tăng
cường năng lực xuất khẩu cho các địa phương; tích cực hỗ trợ các địa
phương, doanh nghiệp chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây
dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững.
Năm là, đẩy
mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ, gia tăng năng lực sản xuất mới nhằm
chủ động tạo nguồn cung nguyên, nhiên, vật liệu, đáp ứng nhu cầu sản
xuất và nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu. Tiếp tục tổ chức kết nối giúp các doanh nghiệp trong nước tham
gia chuỗi sản xuất, cung ứng của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp
lớn toàn cầu, tạo thị trường cho các ngành công nghiệp phát triển.
Chế biến tôm xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản... (Ảnh: TTXVN)
Sáu là, chú
trọng đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại.
Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử, đặc biệt thương mại điện tử
xuyên biên giới nhằm thúc đẩy phát triển các chuỗi cung ứng, lưu thông
hàng hóa, mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục tổ chức tốt
các hội nghị giao ban định kỳ hằng tháng giữa các cơ quan chức năng của
Bộ Công Thương và hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài; giữa các
bộ, ngành liên quan với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp để kịp
thời cung cấp các thông tin về nhu cầu thị trường (nhất là các thị
trường mới, thị trường còn tiềm năng), các quy định, chính sách mới của
các thị trường sở tại, tư vấn chính sách cho các cơ quan quản lý nhà
nước và các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu của Việt Nam.
Bảy là, tăng
cường tổ chức hướng dẫn, thông tin tuyên truyền về các FTA, đặc biệt là
các FTA thế hệ mới; đồng thời, đẩy mạnh hỗ trợ, nâng cao nhận thức hỗ
trợ các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp về sản xuất và tiêu dùng bền
vững; xu hướng xanh hóa trong tiêu dùng và các quy định mới trong việc
thẩm định chuỗi cung ứng của các quốc gia phát triển đối với các ngành
hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng tiêu chuẩn, quy định ngày càng khắt khe của
các nước nhập khẩu và khai thác có hiệu quả các FTA mà Việt Nam là thành
viên để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và mặt hàng
xuất khẩu.
Tám là, tiếp
tục thực hiện tốt các giải pháp tạo thuận lợi hóa thương mại, tập trung
tháo gỡ “rào cản” kỹ thuật để doanh nghiệp thâm nhập các thị trường
mới; tăng cường chuyển đổi số trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ
(C/O) ưu đãi và tuyên truyền, hướng dẫn về quy tắc xuất xứ và cấp C/O,
tự chứng nhận xuất xứ cho các sở công thương, các hiệp hội ngành hàng,
doanh nghiệp xuất khẩu và các đơn vị được Bộ Công Thương ủy quyền. Thúc
đẩy phát triển dịch vụ logistics, góp phần giảm chi phí, nâng cao năng
lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Về phát triển thị trường trong nước:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án về phát triển thị trường trong nước(4);
trong đó, chú trọng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá cho
hàng Việt Nam và tổ chức các hoạt động kết nối cung cầu, kích cầu tiêu
dùng nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động tiêu thụ hàng Việt Nam tại thị
trường trong nước.
Thứ hai, tiếp
tục hoàn thiện thể chế, xây dựng khung khổ luật pháp, chính sách, tạo
môi trường thuận lợi, thông thoáng cho đầu tư, kinh doanh trên thị
trường trong nước, thiết lập trật tự thị trường để thích ứng với bối
cảnh, tình hình mới.
Thứ ba, đẩy
mạnh cơ cấu lại thị trường trong nước theo hướng đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư nhằm tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị và các hệ
sinh thái toàn cầu và khu vực.
Thứ tư, đẩy
mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối
hàng hóa thông qua khuyến khích các hệ thống phân phối hiện đại tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển mạnh thương mại điện
tử.
Thứ năm, xây
dựng và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại trong nước đồng bộ, hiện
đại và bền vững, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nước và hỗ trợ
xuất khẩu. Chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn,
miền núi và hải đảo.
Thứ sáu, chú
trọng phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thương mại trong nước; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã
thương mại, hộ kinh doanh đổi mới phương thức hoạt động theo hướng hiện
đại, chuyên nghiệp.
Thứ bảy, tăng
cường hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các tập
đoàn/doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối. Tập trung tháo gỡ khó
khăn, xây dựng và thực hiện các chính sách để hỗ trợ hiệu quả cho các
doanh nghiệp, các chủ thể tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa,
đặc biệt là hàng hóa nông sản./.
NGUYỄN HỒNG DIÊN
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương
__________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.116-117.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr.87.
(3) Như: Luật Thương mại, Luật Quản lý ngoại thương, Luật Cạnh tranh,
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Chiến lược phát triển xuất, nhập
khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020 và thời kỳ đến năm 2030; Chiến lược
phát triển thương mại trong nước đến năm 2030; Quy hoạch tổng thể phát
triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, định hướng đến năm
2030; Đề án tái cơ cấu ngành công thương giai đoạn 2014 - 2020, tầm nhìn
đến 2030.
(4) Như: Đề án “Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai
đoạn 2021 - 2025 định hướng đến năm 2030”; Đề án “Phát triển thị trường
trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam giai đoạn 2021 - 2025”; Chương trình phát triển thương mại miền núi,
vùng sâu, vùng xa và hải đảo; Đề án “Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam
tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài”...
(Nguồn: TC Cộng sản)