Cụ thể, Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân năm 2015 quy định mọi công dân từ 21 tuổi (trở
lên) có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp theo quy
định của Luật này.
Để trở thành ứng cử viên đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các
cấp, công dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của người đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng Nhân dân cũng như trình tự nộp hồ sơ, vận động tranh
cử theo đúng quy định của pháp luật.
Theo báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đến
nay, sau Hội nghị Hiệp thương lần 2, tổng số người ứng cử đại biểu Quốc
hội khóa XV là 1.161 người, đạt tỷ lệ 2,3 người/1 đại biểu được bầu.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân phải đáp
ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn của đại biểu Hội
đồng Nhân dân được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương.
Theo các quy định mới được sửa đổi, bổ sung của hai đạo luật nói trên
thì đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân phải có các tiêu
chuẩn: Trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam; Có phẩm chất đạo
đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành
pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm
pháp luật khác; Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức
khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; Có điều kiện tham gia
các hoạt động của Quốc hội, hoạt động của Hội đồng Nhân dân.
Người tự ứng cử, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng Nhân
dân của địa phương nào thì phải là người đang cư trú hoặc công tác
thường xuyên ở địa phương đó.
Ngoài ra, người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội đang công tác tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước thì ngoài
việc đảm bảo các tiêu chuẩn chung còn phải là cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động tiêu biểu, xuất sắc; có quan điểm, lập trường chính
trị vững vàng, có năng lực phân tích, hoạch định chính sách, xây dựng
pháp luật, có chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với vị trí dự
kiến, thể hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, không vi
phạm quy định về những điều đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức
không được làm.
Người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp đang
công tác tại cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước nói chung phải là
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tiêu biểu; có tư tưởng
chính trị vững vàng; có năng lực xây dựng chính sách và khả năng tổ chức
hoạt động giám sát, có chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với
vị trí dự kiến; thể hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
không vi phạm quy định về những điều đảng viên, cán bộ, công chức, viên
chức không được làm.
Không giới thiệu và đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện cơ
hội chính trị, tham vọng quyền lực; có tư tưởng cục bộ, bảo thủ, trì
trệ; đang bị thanh tra, kiểm tra dấu hiệu vi phạm; người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng, lãng phí, mất đoàn
kết; những người vi phạm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28/2/2018 của Bộ
Chính trị hoặc có vấn đề về chính trị chưa được kết luận.
Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền tham gia Quốc hội, Hội đồng Nhân dân.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, người được giới thiệu ứng cử để
làm làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân hoạt động chuyên
trách còn cần đáp ứng thêm một số tiêu chuẩn cao hơn về trình độ chuyên
môn, vị trí công tác đang đảm nhiệm, về tình hình sức khỏe và độ tuổi
ứng cử, tái cử (nêu cụ thể tại Hướng dẫn số 36-HD/BTCTW ngày 20/1/2021
của Ban Tổ chức Trung ương).
Người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
Nhân dân là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan lực lượng vũ trang
hoặc người lao động tiêu biểu, xuất sắc đang công tác tại các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội,
đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc thành viên tiêu
biểu của tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, người của thôn, tổ
dân phố bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng
cử đại biểu Hội đồng Nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Người được giới thiệu ứng cử được các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc thôn, tổ dân phố (đối với ứng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp
xã) lựa chọn theo thủ tục nhất định để giới thiệu ra ứng cử đại biểu
Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân và đã hoàn thành việc nộp hồ
sơ ứng cử theo đúng quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng Nhân dân.
Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
Nhân dân các cấp được thực hiện theo quy định tại Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân theo nguyên tắc tập trung dân
chủ; quy trình, thủ tục, hồ sơ cụ thể thực hiện theo quy định của Hội
đồng Bầu cử quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đối với nhân sự là đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước thì việc giới thiệu ứng cử phải
được thực hiện theo đúng các quy định của Đảng và Nhà nước.
Đối với người ngoài đảng thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
cần phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan xem xét, kết luận
về tiêu chuẩn chính trị và chịu trách nhiệm về kết luận của mình.
Người tự ứng cử là người tự thấy mình có đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng
cử đại biểu Quốc hội hay đủ tiêu chuẩn, điều kiện ứng cử đại biểu Hội
đồng Nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, có nguyện vọng ứng cử đại biểu Quốc hội hoặc ứng
cử đại biểu Hội đồng Nhân dân và đã hoàn thành việc nộp hồ sơ ứng cử
theo đúng quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng Nhân dân.
Đảng viên tự ứng cử đại biểu Quốc hội, tự ứng cử đại biểu Hội đồng
Nhân dân các cấp phải là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định
của Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; đồng
thời phải được cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền quản lý đảng viên đồng
ý.
Cụ thể, đảng viên không giữ chức vụ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể chính trị - xã hội nếu tự ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng Nhân dân thì phải báo cáo và phải được chi bộ, đảng bộ cơ sở (nơi
đảng viên sinh hoạt) đồng ý. Đảng viên đang giữ các chức vụ trong các cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị-xã hội, đơn vị sự nghiệp công
lập, doanh nghiệp nhà nước hoặc đã nghỉ hưu nếu tự ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân thì phải báo cáo và phải được cấp có
thẩm quyền quản lý cán bộ và cấp ủy cấp trên trực tiếp của chi bộ, đảng
bộ cơ sở (nơi đảng viên sinh hoạt) đồng ý.
Người ngoài đảng tự ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân
dân từ trước đến nay không bị cản trở vì đây là quyền của công dân. Chỉ
thị 45 của Bộ Chính trị về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng
Nhân dân các cấp đã nêu rất rõ, tất cả công dân Việt Nam đủ điều kiện
đều có quyền tự ứng cử.
Những người tự ứng cử viết đơn gửi đến ủy ban bầu cử các cấp. Trên cơ
sở đó, các ủy ban bầu cử sẽ xem xét, thống nhất với Mặt trận Tổ quốc
đưa ra các hội nghị hiệp thương để thỏa thuận, thống nhất.
Ngoài ra, việc thẩm định hồ sơ của những người tự ứng cử cũng được
tiến hành đồng thời với những người do các cơ quan, đơn vị giới thiệu.
Quy trình thẩm định là như nhau. Cụ thể, thẩm định tiêu chuẩn, lịch sử
chính trị, các vấn đề liên quan tới pháp lý nếu có hoặc ý kiến phản ánh
của nhân dân...
Với cơ chế như trên, đến nay, sau khi vòng hiệp thương lần 2 kết
thúc, theo báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, cả nước sơ bộ
có 77 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội tại 24 tỉnh, thành phố.
Với mục tiêu cao nhất là lựa chọn bầu được những đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng Nhân dân thật sự tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, mọi ứng cử viên đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân, không phân biệt người được giới
thiệu hay người tự ứng cử đều phải trải qua một quy trình 5 bước hiệp
thương, lấy ý kiến cư tri nơi công tác và cư trú cũng như thời hạn nộp
hồ sơ ứng cử là như nhau.
Làm rõ nội dung này, Tiến sỹ Nguyễn Hải Long, Phó Giám đốc Trung tâm
Bồi dưỡng đại biểu dân cử thuộc Ban Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, cho biết: Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng Nhân dân, sau Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để
thỏa thuận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức,
đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng Nhân dân, những người được giới thiệu hay tự ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân phải đảm bảo lấy được ý kiến nhận
xét của cử tri nơi công tác và nơi cư trú cũng như trải qua hai vòng
hiệp thương lần 2, lần 3 để có tên trong danh sách ứng cử viên chính
thức.
Người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử thì ngay sau
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất phải tham dự Hội nghị lấy ý kiến của
cử tri tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mình đang công tác để nhận ý kiến
nhận xét, giới thiệu ứng cử; sau đó mới tiến hành làm hồ sơ ứng cử.
Còn người tự ứng cử thì đã có quyền nộp hồ sơ ứng cử và được cơ quan
có thẩm quyền cùng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xem xét đưa vào danh sách
ứng cử viên cho Hội nghị hiệp thương lần hai.
Sau Hội nghị hiệp thương lần 2 và có tên trong danh sách sơ bộ những
người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân, các ứng cử
viên (gồm người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) phải lấy được
ý kiến nhận xét của cử tri nơi cư trú.
Hội nghị lấy ý kiến cử tri nơi cư trú do Ban Thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp triệu
tập và chủ trì hội nghị.
Bên cạnh đó, khoản 2, Điều 44 của Luật Đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng Nhân dân cũng nêu rõ: “Hội nghị hiệp thương lần thứ hai căn cứ
vào tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần, số lượng người
của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất
để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý
kiến cử tri nơi cư trú; đối với người tự ứng cử thì còn được gửi lấy ý
kiến cử tri nơi người đó công tác (nếu có).”
Như vậy, cùng giai đoạn lấy ý kiến cử tri nơi cư trú như với người
được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử còn phải hoàn tất nốt thủ tục
lấy kiến cử tri nơi công tác mà họ chưa thực hiện như người được giới
thiệu ứng cử đã thực hiện ở giai đoạn trước hội nghị hiệp thương lần
hai.
Tiến sỹ Nguyễn Hải Long nhấn mạnh rằng với quy trình trên, có thể
thấy các quy định của pháp luật về bầu cử không những không hạn chế,
ngăn cản người tự ứng cử mà ngược lại, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người tự ứng cử, đồng thời đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử.
Cũng theo Tiến sỹ Nguyễn Hải Long, cả người được giới thiệu ứng cử
lẫn người tự ứng cử còn có cơ hội bình đẳng như nhau tại hội nghị lấy ý
kiến cử tri nơi cư trú khi Nghị quyết liên tịch
09/2021/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương nêu rõ: “Những trường hợp
người ứng cử không đạt sự tín nhiệm của trên 50% tổng số cử tri tham dự
tại hội nghị cử tri nơi cư trú thì không đưa vào danh sách giới thiệu
tại hội nghị hiệp thương lần thứ ba, trừ trường hợp đặc biệt cần báo cáo
rõ để hội nghị hiệp thương xem xét, quyết định.”
Thực tế cho thấy tại nhiều kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng Nhân dân gần đây, sau hội nghị cử tri nơi cư trú cũng như Hội
nghị hiệp thương lần ba - lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu
chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân - số lượng
ứng cử viên chính thức (bao gồm người được giới thiệu ứng cử và người tự
ứng cử) bị rút gọn lại đáng kể so với danh sách sơ bộ sau Hội nghị hiệp
thương lần hai.
Điều đó phản ánh quyền làm chủ người dân trong bầu cử qua việc đánh
giá, giám sát, sàng lọc của cử tri đối với những người ứng cử để lập ra
một danh sách những ứng cử viên xứng đáng nhất cho nhân dân lựa chọn vào
ngày bầu cử./.
Duy Phong