(TG) - Đã 44 năm kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc được
thống nhất, thế nhưng nhìn lại cuộc chiến tranh, cho đến nay vẫn
còn không ít những quan điểm phiến diện, lệch lạc. Phản bác, đấu
tranh với những quan điểm sai trái về cuộc chiến tranh cũng là việc
làm cần thiết để sự thật lịch sử được soi rọi, góp phần khâu vá cho
những vết thương, cùng nhau vun đắp tương lai.
NHỮNG LỜI DỐI GIAN
Khép lại quá khứ, hướng
tới tương lai là quan
điểm nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta nhưng phải
trên cơ sở tôn trọng sự thật lịch
sử và thiện chí. Đáng buồn là
gần đây, một số nghệ sĩ, nhân
vật có tên tuổi tuy không phải là
người trong cuộc nhưng lại đưa
ra những đánh giá, bình luận
phiến diện về cuộc kháng chiến,
phán xét quá khứ một cách sai
lệch, xuyên tạc. Năm ngoái, nhạc
sĩ Tuấn Khanh khi trả lời một
tờ báo nước ngoài đã nói: “chắc
không lâu nữa, 30-4 sẽ được kỷ
niệm, chỉ như một ngày tái lập
hòa bình và thống nhất trên đất
nước này”. Ông ta cho rằng, kỷ
niệm ngày chiến thắng không
phải là một việc “tử tế”.(!)
Cù Huy Hà Vũ, kẻ sinh ra
trong một gia đình cách mạng
nhưng lại lạc đường. Trong một
chương trình trên Đài Châu Á
tự do, Cù Huy Hà Vũ nêu quan
điểm: Hòa hợp dân tộc không
dừng ở hòa hợp giữa hai bên
“thắng cuộc” và thua cuộc sau
ngày 30-4-1975 mà còn là hòa
hợp giữa những người bất đồng
chính kiến, những nhà dân chủ
với chính quyền hiện nay. Chỉ
có thể hòa hợp được nếu chọn
chế độ đa nguyên chính trị. Chỉ
khi nào “chế độ cộng sản sụp
đổ, người Việt mới có hòa hợp
hòa giải”.
Kênh truyền hình SBTN hải
ngoại cũng từng có bài đưa quan
điểm lệch lạc: Cộng sản và dân
tộc như nước với lửa, không thể
có hòa hợp dân tộc nếu còn chế
độ cộng sản (!). Còn kênh truyền
hình Người Việt TV hải ngoại
thì kêu gọi muốn hòa giải phải
“phục hồi danh dự cho những
người trong chế độ Việt Nam
cộng hòa”, phải thừa nhận đó là
cuộc “nội chiến” và phải xóa bỏ
chế độ cộng sản…
Tác giả Thiện Ý nguyên
luật sư tại Sài Gòn trước 1975,
hiện là Chủ tịch Câu Lạc bộ
Luật khoa Việt Nam ở Houston
(Hoa Kỳ) thì hồ đồ: Thật là một
cuộc chiến vô ích và vô nghĩa
đối với dân tộc Việt Nam. Vì cả
Việt cộng cũng như Việt quốc,
không bên nào thành đạt được
mục tiêu tối hậu theo lý tưởng
của mình, thông qua cuộc chiến
“Nồi da xáo thịt”. Rồi từ đó, ông
ta nêu quan điểm: “Ước gì, từ
nay vào mỗi dịp 30-4 hằng năm,
ngày chấm dứt “cuộc nội chiến
ý thức hệ Quốc - Cộng” tại Việt
Nam, nhà đương quyền Việt
Nam đừng ăn mừng như một
ngày “Chiến thắng!” nữa mà
hãy chủ động đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa đất nước để
mau chấm dứt giai đoạn cuối
cùng của “cuộc nội chiến ý thức
hệ Quốc-Cộng” này; là cái đuôi
của “The Vietnam War”. Ông ta
cho rằng, đó mới là tạo tiền đề
thống nhất toàn lực quốc gia để
xây dựng phát triển toàn diện
đất nước đến phú cường, văn
minh, tiến bộ ngang tầm cao
thời đại; và để có thế lực đập tan
cuồng vọng xâm lăng bất cứ từ
đâu tới”.
Tháng 9-2018 vừa qua, tại
Washington (Mỹ), cái gọi là “tập
hợp vì dân chủ cho Việt Nam”
đã tổ chức và làm rùm beng về
hội thảo có chủ đề “Nhìn lại
chiến tranh Việt Nam”. Họ tiếp
tục đưa ra một số luận điểm bịa
đặt, phi lịch sử để biện hộ cho
cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ
kêu gọi: “43 năm qua, Việt Nam
vẫn chưa có tự do, vẫn chưa có
dân chủ. Thành ra sứ mệnh của
người trẻ tại hải ngoại là phải
tiếp tục đồng hành, tiếp tục
tranh đấu cho tự do và dân chủ.”
Cũng xung quanh bộ phim tài
liệu 10 tập “The Vietnam War”
(Chiến tranh Việt Nam) vừa được
Mỹ công chiếu, một số người
trong nhóm gọi là Văn Đoàn Độc
lập đã tung hô và xét lại lịch sử.
Họ cho rằng: Việt Nam cũng nên
noi gương Mỹ, “nhìn lại lịch sử”
cuộc chiến tranh sau 50 năm, để
có cái nhìn khác về cuộc kháng
chiến. Tham gia ca ngợi bộ phim
có những người như Nguyên
Ngọc, Huy Đức, Bùi Tín… Họ
đưa ra nhận định ảo tưởng: “Có
nhất thiết phải qua chiến tranh
mới giành được độc lập không?
Giá chúng ta tìm một con đường
khác ít xương máu hơn cho nền
độc lập của đất nước thì quý biết
nhường nào?”.
Chiến tranh đã kết thúc 44
năm, nhưng vẫn còn không ít
người nhai lại những luận điệu
cũ rích: “Cuộc nội chiến giữa
Cộng sản và Quốc gia (?)”, “Cuộc
chiến tranh ủy nhiệm” của 2
phía (tư bản và cộng sản) trong
chiến tranh lạnh. Đó thật sự chỉ
là những lời dối gian, xóa nhòa
lịch sử, không thể mang lại
những nhận thức tích cực cho
hiện tại.
SỰ THẬT TỪ CHÍNH LỜI
NGƯỜI TRONG CUỘC
Nhà văn Bảo Ninh, một
người lính - người cầm bút kinh
qua cuộc chiến tranh từng nêu
lên một nhìn nhận đáng suy
nghĩ: Thường những người
không qua “đánh nhau”, không
cầm súng thì lại hay phán xét
về cuộc chiến. Nhà báo, nhà
văn Trần Mai Hạnh, tác giả cuốn sách “Biên bản chiến tranh
1.2.3.4-1975” xuất bản bằng cả
tiếng Việt và tiếng Anh với mục
đích sẵn sàng đối thoại trên
tinh thần sự thật nói: “Tôi quan
điểm lịch sử là tự nó diễn ra.
Lịch sử là sự thật. Không phải
anh thắng thì nói thế nào cũng
được, mà anh thua thì muốn
nói thế nào cũng xong. Nếu có
tranh cãi nhau cũng phải tranh
cãi bằng sự thật.”
Vậy thì chỉ cần nhìn lại,
nghe lại những gì người trong
cuộc nói về cuộc chiến tranh,
cũng đủ thấy cuộc kháng chiến
chống Mỹ có phải là “nội chiến”,
“chiến tranh ủy nhiệm”, người
Việt Nam hôm nay có cần đi
về con đường xóa bỏ Đảng
Cộng sản mới có thể “hòa hợp
dân tộc”?
Tom Polgar, nhân viên cao
cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam,
một trong những người Mỹ
cuối cùng di tản, đã ghi lại cảm
tưởng của mình vào ngày hôm
ấy: “Đó là một cuộc chiến tranh
lâu dài và khó khăn mà chúng ta
đã thua. Thất bại độc nhất của
lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không
báo trước sức mạnh bá chủ toàn
cầu của nước Mỹ đã chấm dứt.
Nhưng... Ai không học được gì ở
lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại
sai lầm trong lịch sử”.
Henry Kissinger, cựu ngoại
trưởng Hoa Kỳ viết: “Hà Nội chỉ
chiến đấu với một lẽ duy nhất,
đó là lòng yêu nước của họ. Và
một nước Việt Nam thống nhất
dưới sự lãnh đạo của những
người cộng sản Việt Nam, chiến
thắng vào năm 1975…”.
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, Phụ tá Tổng Tham mưu
trưởng cuối cùng của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đã viết:
“Người Mỹ họ có đường lối của
họ: đó là họ phải nắm chỉ huy
ở miền Nam này. Họ chỉ huy
trong mọi lĩnh vực, từ chính trị,
kinh tế tới ngoại giao... Mỹ nắm
hết. Rồi chính Mỹ đã từ bỏ miền
Nam Việt Nam.”
Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó
Thủ tướng, kiêm Tổng trưởng
Quốc phòng, đồng thời là Tổng
tham mưu trưởng Việt Nam
Cộng hòa sau này trả lời phóng
vấn Báo Pháp luật Thành phố
Hồ Chí Minh nói: “Chiến thắng
30-4-1975 rất vĩ đại, là chiến
thắng của sức mạnh toàn dân
tộc Việt Nam... Không còn chiến
tranh, không còn bom rơi đạn
nổ trên quê hương mình là điều
lớn nhất mà việc kết thúc chiến
tranh mang lại”.
Cựu Thủ tướng của Việt Nam
Cộng hòa, Nguyễn Cao Kỳ nhận
xét về việc các cựu quan chức
Việt Nam Cộng hòa lưu vong ở
hải ngoại gọi ngày 30-4 là “quốc
hận” và đòi “phục quốc”,”Thống
nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử
của mỗi một người con Việt
Nam nhưng chúng tôi đã không
làm được. Nhưng những người
anh em phía bên kia đã làm
được, phải chấp nhận đó là lịch
sử và đất nước đã được thống
nhất rồi. Vậy mà còn quay ra
nói phục quốc? Nước Việt Nam
có mất cho Tây cho Tàu đâu mà
phục quốc?”
Trong cuốn “Tường trình
một người lính”, Tướng W.
Westmoreland, Tổng Chỉ huy
quân viễn chinh Mỹ ở miền
Nam Việt Nam (1946-1968) đã
viết: “Lịch sử rất có thể đánh
giá lại rằng, nhảy vào Việt Nam
là một trong những sai lầm lớn
nhất của đất nước chúng ta”.
Ông cũng thừa nhận: “Mỹ phải
chịu trách nhiệm đặc biệt về
cuộc chiến tranh Việt Nam”.
TÔN TRỌNG SỰ THẬT ĐỂ
HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn/Lấy chí nhân để thay
cường bạo”. Hai câu thơ của
Nguyễn Trãi đã phần nào đúc
kết truyền thống khoan dung,
hòa hiếu của dân tộc ta, ngay
cả với kẻ thù xâm lược chứ
chưa nói đến đồng bào lầm lỗi.
Ngay sau khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa mới
ra đời, trong khi phải lo đối
phó với thù trong, giặc ngoài,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa
ra quan điểm nhân văn: “Tôi
khuyên đồng bào đoàn kết chặt
chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay
cũng có ngón vắn, ngón dài,
nhưng vắn dài đều họp nhau
lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này
thế khác, nhưng thế này hay
thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng
đã là con Lạc, cháu Hồng thì
ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc”. Hơn 10 năm sau, Người
một lần nữa khẳng định: “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, song chân lý ấy
không bao giờ thay đổi”.
Ngay cả khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước chưa
kết thúc, giữa đất lửa Vĩnh
Linh, Quảng Trị, khi nghe câu
hỏi: “Sau khi Việt Nam đánh
thắng đế quốc Mỹ, thống nhất
đất nước, việc gì là lớn nhất?”,
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã trả lời:
“Vấn đề lớn nhất sau chiến
tranh cần phải làm, đó là hòa
hợp dân tộc!”.
Một dẫn chứng sinh động
ghi nhận nỗ lực của Đảng, Nhà
nước ta trong hòa hợp dân tộc
phải kể đến việc ông Nguyễn
Cao Kỳ, nguyên Phó Tổng thống
của chính quyền Sài Gòn sau
khi về Việt Nam đã có phát
biểu: “Người ta nói trăm nghe
không bằng một thấy nên tất
nhiên về nước thì có dịp kiểm
chứng lại mọi điều một cách cụ
thể, rõ ràng và chi tiết hơn. Tôi
rất mừng là đất nước đổi mới
nhiều”; “Tôi sẽ nói về sự tiến
triển, không khí và tình hình
của đất nước để cho họ thấy,
từ đó thuyết phục những người
chưa hiểu: Đã đến lúc phải hòa
hợp, hòa giải giữa anh em với
nhau để xây dựng đất nước chứ
ngoái cổ lại nhìn dĩ vãng rồi
hận thù, chua chát, cay đắng
thì đâu có được. Nhưng mà
chắc chắn là không thể thuyết
phục hết được vì vẫn còn một
số người - một bộ phận rất nhỏ
- cả đời chỉ nghĩ cho cá nhân họ
thôi, nhiều khi họ phát ngôn
nói năng lung tung, để ý làm
gì. Tôi nghĩ chuyện chính vẫn
là quyền lợi đất nước”. Chứng
kiến sự đổi thay của đất nước
và những chủ trương, chính
sách về hòa hợp, hòa giải của
Đảng và Nhà nước Việt Nam,
ông Nguyễn Cao Kỳ đã công
nhận rằng những người cộng
sản Việt Nam hiện đang làm rất
tốt và làm tốt hơn các ông.
Nguyên Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết từng có nhận
xét sâu sắc: “Có những người
chứng kiến sự hy sinh của dân
tộc quá lớn, họ cứng như thép,
không dễ xoay chuyển được...
Nếu nhìn vào những mất mát,
hy sinh to lớn, xét về nguyên
tắc là không thể nhân nhượng,
bỏ qua được. Nhưng xét về tình
dân tộc, nghĩa đồng bào, đã 40
năm rồi, thì trong quan hệ có
thể cởi mở, mềm dẻo, đối xử
nhẹ nhàng”.
Ông Nguyễn Cao Kỳ cũng từng
khẳng định: “Một chính quyền
độc đảng mang đến sự ổn định
và kỷ luật thì cần thiết cho Việt
Nam để ra khỏi sự nghèo khổ…
Tôi cho rằng thật là sai lầm khi
một số người, đặc biệt là số người
Việt ở Mỹ ngày nay đòi hỏi Việt
Nam phải chấp nhận và thực
hiện một nền dân chủ họ đang
hưởng ở Mỹ. Quan niệm của tôi
là, đó là một sự sai lầm. Nền dân
chủ đó không thích hợp với Việt
Nam trong tình thế hiện nay”.
Mẫu số chung cho câu
chuyện đại đoàn kết, hòa hợp
dân tộc chính là mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, đó là sự ổn định để phát
triển. Và như thế, những quan
điểm định kiến, hẹp hòi, kích
động thù hận, khơi sâu thêm
chia rẽ như những viên sỏi nhỏ
sẽ nhanh chóng chìm trong
biển cả bao la của hòa hợp dân
tộc, của tình yêu quê hương
đất nước./.
Nguyễn Văn Minh
____________________________________
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo số 4/2019