(TG) - Từ khi thành lập ngày 2-9-1945, Việt Nam luôn kiên trì theo đuổi
mục tiêu không ngừng đảm bảo quyền con người cho mọi người dân.
Những thành tựu trong đảm bảo các quyền dân sự và chính trị là
minh chứng sinh động nhất.
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Kể từ khi nộp Báo cáo
quốc gia lần thứ hai về
việc thực thi Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR) năm 2002 đến
nay, Việt Nam ngày càng chú
trọng công tác xây dựng pháp
luật và đã đạt được những kết
quả rất đáng khích lệ, đặc biệt
là sau Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Chỉ trong
vòng hơn 10 năm, rất nhiều luật
quan trọng liên quan trực tiếp
đến các quyền dân sự, chính trị
đã được ban hành và liên tục
được rà soát để sửa đổi, bổ sung
nhằm mục đích ngày càng ghi
nhận đầy đủ nhất các quyền này.
Hiến pháp được Quốc hội
thông qua năm 2013 đã đánh
dấu bước tiến quan trọng của
Việt Nam trong nhận thức về
quyền con người cũng như
trách nhiệm của Nhà nước, các
tổ chức, cá nhân trong việc công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền
công dân trên tất cả các lĩnh vực.
Trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp năm 2013, nhiều văn
bản quy phạm pháp luật thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau đã
được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ
hoặc ban hành mới, trong đó bao
gồm các nội dung về quyền con
người, quyền công dân. Chỉ tính
từ tháng 1-2014 đến nay, đã có
khoảng hơn 100 luật, pháp lệnh
được Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thông qua, trong
đó có nhiều luật quan trọng về
quyền con người, chẳng hạn
như: Bộ luật Hình sự năm 2015;
Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật
Thi hành tạm giữ, tạm giam
năm 2015; Luật Tiếp cận thông
tin năm 2016; Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2016; Luật Báo chí
năm 2016; Luật Trợ giúp pháp lý
năm 2017; Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2017;
Luật An ninh mạng năm 2018;
Luật Tố cáo năm 2018; Luật Đặc
xá năm 2018... Các đạo luật này
quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết
các quyền dân sự và chính trị;
các cơ chế bảo đảm và phát huy
các quyền này tại Việt Nam...
|
Các đạo luật điều chỉnh các
lĩnh vực chuyên ngành cụ thể
có liên quan đến quyền dân sự
và chính trị cũng đều có quy
định về nguyên tắc đảm bảo
thực thi quyền. Pháp luật về
quyền giám sát của các cơ quan
dân cử, quyền trực tiếp giám sát,
kiểm tra của công dân đối với
các hoạt động của cơ quan, cán
bộ, công chức đã đổi mới một
bước, theo đó hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội đã được
thực hiện thường xuyên hơn.
Các hình thức giám sát được tổ
chức đa dạng, phong phú như
việc trả lời chất vấn của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn...
TỰ DO NGÔN LUẬN,
BÁO CHÍ, TÔN GIÁO
Về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, Việt Nam luôn coi
trọng chính sách đoàn kết và
hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm
bảo sự bình đẳng, không phân
biệt đối xử vì lý do tôn giáo. Pháp
luật Việt Nam đã tạo khuôn khổ
pháp lý vững chắc để bảo đảm
tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo cho người dân.
Ở Việt Nam, không có việc
cưỡng ép từ bỏ niềm tin, theo
dõi, đe dọa, xúc phạm, giam giữ,
tra tấn, hạn chế quyền tiếp cận
tôn giáo. Việt Nam nghiêm cấm
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
kích động hận thù, chia rẽ, gây
mâu thuẫn và xung đột, làm
tổn hại đến an ninh, ổn định
của đất nước và cuộc sống yên
bình của người dân. Các tôn
giáo ở Việt Nam chung sống
hòa hợp trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Hiện có 42
tổ chức thuộc 15 tôn giáo được
công nhận tư cách pháp nhân;
60 cơ sở đào tạo tôn giáo, thuộc
Phật giáo, Công giáo, Tin lành,
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
Nhà nước Việt Nam tạo điều
kiện cho các tổ chức tôn giáo
in ấn, phát hành kinh sách và
đồ dùng việc đạo; đảm bảo tự
do tôn giáo tín ngưỡng của các
dân tộc thiểu số.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp, thực tiễn cuộc sống là bằng chứng rất rõ nét về việc thụ hưởng quyền này ở Việt Nam. Có thể thấy, báo chí ở Việt Nam đã phát triển không ngừng, trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ bảo vệ quyền của người dân, lợi ích của xã hội, hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật, chính sách.
Tính đến tháng 6-2018, cả
nước đã có tới có 857 cơ quan
báo chí với 1.119 ấn phẩm, số
lượng trang thông tin điện tử
tổng hợp được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép đến hết
tháng 6-2018 là 1.510. Hơn 20
cơ quan báo chí nước ngoài có
phóng viên thường trú tại Việt
Nam. Internet phát triển vô cùng
nhanh chóng đang tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tiếp cận
thông tin, phục vụ phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa. Tỷ lệ hộ
gia đình có truy cập internet là
28,35%, số người dùng Internet
ở Việt Nam là khoảng 50 triệu
người, chiếm 54% dân số (so với
30,8 triệu người năm 2013). Việt
Nam có 58 triệu tài khoản sử
dụng Facebook.
Quyền lập hội đã được quy
định trong Hiến pháp 2013, Bộ
luật hình sự 2015 và một số
văn bản quy phạm pháp luật
khác. Đến năm 2017, Việt Nam
có 68.125 hội, trong đó có các tổ
chức, hiệp hội của thanh niên,
phụ nữ, công nhân, nông dân,
người cao tuổi, người khuyết
tật, các hội từ thiện, các tổ chức
khoa học, nghề nghiệp, các tổ
chức phi chính phủ. 5 tổ chức
chính trị-xã hội lớn có tầm ảnh
hưởng sâu rộng trong xã hội là:
Công đoàn Việt Nam, Hội Nông
dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam. Hiện nay,
Việt Nam đang xây dựng Luật về
Hội. Dự thảo Luật về Hội đã được
tham vấn nhiều lần ý kiến của
các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức phi chính phủ, các chuyên
gia và người dân để trình Quốc
hội cho ý kiến.
Quyền bình đẳng trước tòa
án và quyền được xét xử công
bằng đã được quy định trong
Hiến pháp, các đạo luật liên
quan và đã đi vào thực tế. Năm
2017, Tòa án gia đình và người
chưa thành niên đã được thành
lập nhằm bảo vệ quyền lợi cho
phụ nữ và trẻ em dưới 18 tuổi.
Các cơ chế tố tụng được bảo
đảm theo hướng công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người; thủ tục phiên
tòa được đổi mới. Việc tiếp cận
công lý của người dân luôn
được khẳng định … Năm 2018,
các Trung tâm trợ giúp pháp lý
(TGPL) đã tiếp nhận, thực hiện
58.887 vụ việc TGPL cho 51.608
lượt người, trong đó có 18.358
vụ việc tham gia tố tụng (tăng
12,7% so với năm 2017). Đặc
biệt, 100% các vụ án hình sự mà
yêu cầu phải chỉ định luật sư bào
chữa thì đều có sự tham gia của
luật sư, trợ giúp viên pháp lý.
Lĩnh vực hành chính và tư
pháp - lĩnh vực gắn chặt với
người dân, doanh nghiệp - đã
được chú trọng nâng cao chất lượng. Một khối lượng lớn nhu
cầu liên quan đến vấn đề hộ
tịch, quốc tịch, chứng thực đã
được giải quyết, trong đó các
cơ quan có chức năng của Việt
Nam thực hiện đơn giản hóa thủ
tục hành chính, từng bước hiện
đại hóa, tạo thuận lợi cho người
dân cũng như đáp ứng tốt hơn
yêu cầu quản lý nhà nước.
Năm 2018, số lượng đăng
ký hộ tịch đều tăng so với năm
2017, đặc biệt là số lượng đăng
ký khai sinh lại tăng rất lớn
(đăng ký khai sinh mới cho
2.180.030 trường hợp, đăng
ký khai sinh lại cho 1.413.987
trường hợp và 5.354 trường hợp
khai sinh có yếu tố nước ngoài;
đăng ký kết hôn cho tổng số
787.764 cặp, trong đó có 20.849
trường hợp có yếu tố nước
ngoài). Năm 2018, Bộ Tư pháp đã
tham mưu, trình Chủ tịch nước
giải quyết 5.452 hồ sơ về quốc
tịch (gồm 5.278 hồ sơ xin thôi,
164 hồ sơ xin nhập, 10 hồ sơ xin
trở lại quốc tịch Việt Nam); trả
lời tra cứu quốc tịch Việt Nam
của 1.875 trường hợp theo đề
nghị của các cơ quan.
GIẢI PHÁP KHI THỰC THI
CÔNG ƯỚC
Trong quá trình thực hiện
Công ước ICCPR với mục tiêu
hết sức tốt đẹp, Việt Nam phải
đương đầu với một số khó khăn,thách thức cả về chủ quan và
khách quan. Một là, hậu quả
của nhiều cuộc chiến tranh và
sự phát triển kinh tế đã khiến
môi trường bị tàn phá; Hai là,
thu nhập của người dân còn ở
mức trung bình thấp; điều kiện
kinh tế - xã hội còn hạn chế;
Ba là, khuôn khổ pháp luật về
quyền con người vẫn đang trong
quá trình hoàn thiện, năng lực
tổ chức thực hiện pháp luật còn
hạn chế, hiểu biết và ý thức chấp
hành pháp luật còn chưa cao;
Bốn là, mức độ phát triển kinh tế
- xã hội giữa các vùng và nhóm
dân cư chưa đồng đều; thiếu hụt
nguồn lực; Năm là, chất lượng
giáo dục về quyền con người
mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp
thông tin; phong tục, tập quán
lạc hậu; biến động của tình hình
khu vực và quốc tế...
Những thách thức trên
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến mỗi người dân mà còn làm
phân tán nguồn lực của đất
nước, làm giảm hiệu quả của
các chính sách khuyến khích
và thúc đẩy phát triển quyền
dân sự và chính trị ở Việt Nam.
Tuy vậy, Việt Nam vẫn nỗ lực
vượt qua và đặt ưu tiên cao nhất
là tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền, cải cách pháp luật
và tư pháp, thực thi có hiệu quả
các quy định pháp luật để thành
công hơn nữa trong việc bảo
vệ và thúc đẩy quyền dân sự và
chính trị ở Việt Nam.
Trong điều kiện nước ta
hiện nay, để thực hiện các mục
tiêu trên, cần tập trung vào một
số giải pháp sau: Một là, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho
việc bảo vệ, thúc đẩy và phát
triển quyền con người, quyền
công dân; Hai là, xây dựng chế
độ trách nhiệm của cán bộ,
công chức nhà nước và hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
bảo đảm nhân dân tham gia
thực sự công việc Nhà nước;
Ba là, xóa đói, giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội, giảm sự
phân hóa giàu nghèo, nền tảng
cho phát triển bền vững; Bốn là,
tăng cường bảo vệ quyền con
người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự; Năm là, tăng cường
sự giám sát của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp đối với
cơ quan tư pháp. Sáu là, tăng
cường sự giám sát của đoàn thể
quần chúng, các tổ chức chính
trị xã hội đối với hoạt động
tư pháp; bảo đảm sự tham gia
trong lĩnh vực đấu tranh phát
giác tội phạm và tham gia hoạt
động xét xử./.
Việt Nam vẫn nỗ lực
vượt qua và đặt ưu
tiên cao nhất là tiếp
tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền, cải cách
pháp luật và tư pháp,
thực thi có hiệu quả các
quy định pháp luật để
thành công hơn nữa
trong việc bảo vệ và
thúc đẩy quyền dân sự
và chính trị ở Việt Nam. |
Pham Tuấn Nghĩa
_______________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 4/2019