TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
Tư tưởng Hồ Chí Minh “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”(1). Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tập hợp những chỉ dẫn, quan điểm về các vấn đề trọng yếu của đất nước, như giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,...; trong đó, tư tưởng về tín ngưỡng, tôn giáo là bộ phận quan trọng, hướng tới mục tiêu đoàn kết toàn dân và giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, giàu mạnh. Thực tế, tôn giáo là vấn đề lớn, luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm bên cạnh nhiều công việc khác; tư tưởng, quan điểm của Người về tôn giáo được tập trung ở các nội dung sau:
Thứ nhất, về vị trí, vai trò của đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như sự gắn bó sâu sắc giữa tôn giáo với dân tộc.
Tư tưởng đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được kết tinh từ sự kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam; đồng thời, dựa trên sự đánh giá đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước trước đây cũng như sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở xác định đoàn kết tôn giáo nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là yếu tố cơ bản đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”(2). Theo Người, hoạt động đoàn kết người có tôn giáo và người không có tôn giáo phải được chú trọng đúng mức, thực hiện thường xuyên, lâu dài và toàn diện, bởi đây là yếu tố chiến lược, không thể chỉ sử dụng phương thức, biện pháp mang tính nhất thời. Người chỉ rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(3).
Bên cạnh đó, việc tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt về nhận thức, tư tưởng, niềm tin cũng như tìm kiếm và phát huy điểm tương đồng, mẫu số chung vì mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cao cả của dân tộc luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao, coi trọng. Theo đó, Người xác định, đối với người theo tôn giáo thì đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn, ngược lại, những giá trị đó có mối quan hệ biện chứng, thôi thúc, bổ sung cho nhau. Trong hoàn cảnh thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo, cụ thể, đất nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã(4). Như vậy, có thể khẳng định, chính sự hiểu biết sâu sắc cùng tâm huyết, mong muốn giải quyết thỏa đáng mối quan hệ tôn giáo với dân tộc của Người đã tạo cơ sở, nền tảng vững chắc để sau này các tôn giáo tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam xác định đường hướng hoạt động tiến bộ, gắn bó với dân tộc, như “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo; “Đạo pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo; “Nước vinh, đạo sáng” của đạo Cao Đài; “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục sự Tổ quốc và dân tộc” của đạo Tin lành,...
Thêm vào đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đồng bào và chiến sỹ cả nước phải quan tâm chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng và bảo vệ đất nước, Người yêu cầu chính quyền các địa phương thật quan tâm đến phần đời và phần đạo của tín đồ các tôn giáo,...; trăn trở làm thế nào để “sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui”(5). Mặt khác, Người có sự quan tâm nhất định đến lực lượng chức sắc và đội ngũ trí thức các tôn giáo; đánh giá cao vai trò, ảnh hưởng của họ trong đời sống xã hội; luôn trân trọng, lắng nghe, tiếp thu ý kiến, thể hiện sự mẫu mực, giản dị, chân thành trong quan hệ và ứng xử với chức sắc và trí thức các tôn giáo. Năm 1945, với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã trân trọng mời các chức sắc tôn giáo tham gia chính quyền các cấp với những chức danh phù hợp(6).
Bên cạnh việc coi trọng đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện tinh thần, ý chí kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo hòng gây chia rẽ, mâu thuẫn trong khối đại đoàn kết dân tộc; chủ trương “bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo đã phản Chúa, phản nước”(7). Tuy nhiên, theo Người, công tác đấu tranh chống âm mưu, hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu không được máy móc, cứng nhắc bởi không ít người lầm đường lạc lối do hoàn cảnh xô đẩy hoặc nhẹ dạ, cả tin nên bị dụ dỗ, mua chuộc. Đặc biệt, trong việc xử lý, giải quyết, Người luôn mở đường cho những người lầm lẫn, bị mua chuộc trở về với chính nghĩa, dân tộc bằng thái độ khoan dung, bởi: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Rồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”(8).
Thứ hai, về tư tưởng tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Có thể nói, tư tưởng tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện nhất quán cả trong kho tàng hệ thống lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là nguyên tắc nền tảng xuyên suốt trong chủ trương, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở từng thời kỳ; có sự thâm nhập, thấm nhuần sâu rộng vào quần chúng nhân dân nói chung, tín đồ chức sắc các tôn giáo nói riêng. Trong lúc bôn ba tìm đường cứu nước, Người sớm được tiếp cận với nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, những tư tưởng tiến bộ, nguyên tắc ứng xử với tôn giáo trong các cuộc cách mạng tư bản, điển hình là Cách mạng Mỹ (năm 1776), Cách mạng Tư sản Pháp (năm 1789), Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (năm 1911),... Sau đó, nhờ sự tiếp thu và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nghiên cứu, đánh giá các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam,... đã sớm hình thành quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong hệ thống tư tưởng của Người.
Ngay sau Ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Người đã chỉ ra sáu vấn đề cấp bách cần giải quyết, trong đó vấn đề thứ sáu chính là “tôn giáo”. Người chủ trương bảo đảm tự do tôn giáo, điều này được thể hiện trong những văn kiện quan trọng đầu tiên của Đảng và Nhà nước Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng. Cụ thể, ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận nhân dân có quyền “tự do tín ngưỡng”; kế tiếp, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam cũng đã nhấn mạnh:“Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân”. Đặc biệt, năm 1955, Người ký quyết định ban hành Sắc lệnh số 234/SL (văn bản quy phạm pháp luật riêng cho tôn giáo sớm nhất ở Việt Nam) nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo dưới chế độ mới, được tín đồ, chức sắc các tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ, khẳng định: “Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mỗi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”(9); đồng thời, nêu rõ quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo, như truyền đạo, giảng đạo, đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, quan hệ quốc tế, tham gia các hoạt động xã hội,...
Thứ ba, về nhìn nhận, đánh giá các giá trị của tôn giáo trong đời sống.
Từ nền tảng tri thức rộng lớn gắn với quá trình tự nhận thức, không ngừng nghiên cứu, tiếp thu, phân tích về vai trò, hệ giá trị mà hệ thống tôn giáo phương Đông và phương Tây tạo ra, đồng thời là quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành một trong số ít người Mác-xít, chiến sĩ cộng sản chân chính đương thời có tư tưởng, thái độ bao dung, toàn diện, thấu tình, đạt lý trong nhìn nhận những giá trị tích cực của tôn giáo. Người nêu rõ những khía cạnh cao đẹp về đạo đức và nhân văn của tôn giáo:“Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái/Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi/Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”(10).
Thêm vào đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bày tỏ lòng kính trọng, ngưỡng mộ các danh nhân của thế giới, không phân biệt các danh nhân đó thuộc tôn giáo nào, vô thần hay hữu thần, là người phương Đông hay phương Tây,... Người đã chủ động chắt lọc, rút ra những bài học, giá trị quý báu để kế thừa và phát triển, từ Đức Phật Thích Ca, Chúa Giê-su đến Khổng Tử, Các Mác, Tôn Dật Tiên,... Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt tôn giáo trong mối quan hệ với dân tộc, thấy rằng tôn giáo chỉ có thể khẳng định được mình khi sống giữa lòng dân tộc, ngược lại, con đường phát triển của đất nước, cần khai thác, phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo. Mặt khác, Người luôn sẵn sàng bác bỏ luận điệu xuyên tạc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ hạn chế, thậm chí không chấp nhận chung sống với tôn giáo một cách khoa học; tập trung giải tỏa nỗi lo lắng, ngờ vực trong cộng đồng các tôn giáo khi bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới.
Nhân dân xem múa rồng nhang đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung - lễ hội lớn nhất trong năm của Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh trong đêm trung thu. (Nguồn: nhiepanhdoisong.vn)