Theo đó, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020
từng bước nâng bậc xếp hạng tín nhiệm quốc gia đạt mức xếp hạng tín
nhiệm tối thiểu bằng mức khởi điểm đầu tư (Baa3 đối với xếp hạng tín
nhiệm của Moody’s hoặc BBB - đối với xếp hạng tín nhiệm của S&P hoặc
Fitch).
Trong số các chỉ tiêu cụ thể nhằm tiếp
tục nâng cao nội lực của nền kinh tế, tăng cường chủ động và chuyên
nghiệp trong việc thực hiện các công việc liên quan đến xếp hạng tín
nhiệm quốc gia; đồng thời bảo đảm thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô chủ yếu như: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân 7 - 8%/năm trong giai đoạn 2011-2020; đến năm 2020 GDP
theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu
người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD.
Đồng thời, tiếp tục xử lý tốt mối quan
hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; có chính sách
khuyến khích tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tỷ trọng đầu tư toàn
xã hội duy trì trong khoảng từ 33-35% GDP, đồng thời nâng cao hiệu quả
đầu tư công, phấn đấu đưa chỉ số ICOR về mức trung bình so với các nước
có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa
bình quân 11 – 12%/năm trong giai đoạn 2011 – 2020, trong đó giai đoạn
2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016 – 2020 tăng
trưởng bình quân 11%/năm. Giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập
siêu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân
bằng cán cân thương mại vào năm 2020.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 5%-7% vào năm 2015 và được tiếp tục duy trì ở mức hợp lý trong giai đoạn 2016-2020.
Đồng thời, Đề án nêu chỉ tiêu phấn đấu
giảm thâm hụt cán cân vãng lai, ổn định cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế và tiến tới thặng dư; tăng mức dự trữ ngoại hối nhà nước đạt ít nhất
12 tuần nhập khẩu, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đạt mức mức trung
bình so với các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia.
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giảm xuống dưới 4,5% GDP vào năm 2015 và khoảng 4% GDP trong giai đoạn 2016-2020.
Ngoài ra, nợ công (bao gồm nợ chính phủ,
nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương) đến năm 2020
không quá 65% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ không quá 55% GDP; nợ nước
ngoài của quốc gia không quá 50% GDP./.
(Theo: VOV)