Thứ Sáu, 22/11/2024
Thời sự - Chính trị
Thứ Hai, 8/8/2022 9:13'(GMT+7)

Việt Nam - thành viên nòng cốt trong sự phát triển của ASEAN

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu tại Lễ Thượng cờ nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/1967-8/8/2022). (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu tại Lễ Thượng cờ nhân kỷ niệm 55 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/1967-8/8/2022). (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)

Ngày 8/8 đánh dấu chặng đường 55 năm hình thành và phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Trải qua hơn 5 thập kỷ, ASEAN ngày nay đã trở thành một cộng đồng, một nền kinh tế lớn trên thế giới, hợp tác an ninh-chính trị, văn hóa-xã hội ngày càng sâu rộng.

Và Việt Nam luôn tự hào là một thành viên trách nhiệm, tích cực với những đóng góp không nhỏ để có một ASEAN như ngày hôm nay.

Những dấu ấn Việt Nam trong ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập ngày 8/8/1967 với 5 thành viên ban đầu; phát triển dần thành một tổ chức hợp tác toàn diện và chặt chẽ, bao gồm cả 10 nước Đông Nam Á và chính thức trở thành Cộng đồng ASEAN vào ngày 31/12/2015.

Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 nhân dịp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) ở Brunei. Tuy nhiên, quá trình Việt Nam tham gia ASEAN đã được khởi động từ trước đó.

Cụ thể, tháng 7/1992, Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và trở thành quan sát viên của ASEAN; từ năm 1993, Việt Nam họp tham vấn thường xuyên với ASEAN nhân dịp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN hàng năm, tham gia các chương trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-thông tin, phát triển xã hội; Năm 1994, Việt Nam trở thành một trong những thành viên ban đầu của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), một diễn đàn khu vực đầu tiên bàn về các vấn đề chính trị-an ninh do ASEAN giữ vai trò chủ đạo.

Tham gia ASEAN là một quyết sách có tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tạo nên cục diện phát triển mới cho đất nước, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển và nâng cao vị thế đất nước.

Tham gia ASEAN với phương châm “tích cực, chủ động và có trách nhiệm,” trong suốt hành trình 27 năm qua, Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho một ASEAN thống nhất, đoàn kết, hòa bình, ổn định và phát triển, có tiếng nói ở khu vực và được các nước lớn công nhận.

Điểm lại một số đóng góp nổi bật góp phần giúp gây dựng vị thế vững mạnh trong ASEAN, ngay sau khi gia nhập tổ chức, Việt Nam đã giải quyết nhiều lực cản để tích cực thúc đẩy ASEAN kết nạp các nước Lào, Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm 1999).

Điều này đã giúp Việt Nam trở thành cầu nối giữa khu vực Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Nhờ đó, đến năm 1999, toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á đã hiện thực hóa giấc mơ về một đại gia đình, quy tụ sức mạnh tập thể của toàn khu vực, xóa bỏ nghi kỵ giữa các dân tộc, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao đáng kể tinh thần tự chủ của khu vực.

Cùng với đó, trong 27 năm qua, Việt Nam đã đóng vai trò nòng cốt trong việc xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và hình thành các quyết sách lớn trong ASEAN.

Song hành với đó, Việt Nam luôn tích cực và nghiêm túc cùng ASEAN đưa các quyết sách vào triển khai với tầm nhìn rộng lớn, nhiều sáng kiến đột phá trên mọi lĩnh vực với mức độ và phạm vi ngày càng sâu rộng.

Trong bối cảnh thế giới và khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của những biến động nhanh chóng và phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến an ninh và ổn định ở Đông Nam Á, Việt Nam đã đóng góp vào quá trình xây dựng nguyên tắc, “luật chơi,” cùng ASEAN ứng phó hiệu quả với các nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định khu vực, thúc đẩy đối thoại và hợp tác.

Đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trong mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác giữa ASEAN với các đối tác.

Một trong những điểm nhấn quan trọng về đóng góp của Việt Nam đối với ASEAN là việc đảm nhận, đăng cai thành công các hoạt động và hội nghị quan trọng của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết, thống nhất trong ASEAN, nâng cao uy tín của hiệp hội và ghi dấu ấn nước Chủ tịch bằng nhiều sáng kiến.

Đặc biệt, năm 2020 đánh dấu 25 năm gia nhập ASEAN, cũng là lần thứ 3 đảm nhận trọng trách Chủ tịch ASEAN. Khó khăn của giai đoạn này là phải đối mặt với những thách thức to lớn do đại dịch COVID-19, song Việt Nam đã chứng tỏ bản lĩnh và vai trò dẫn dắt, chủ động của nước Chủ tịch luân phiên.

Việt Nam đã chủ động, tích cực và có trách nhiệm và kiên trì các nguyên tắc của ASEAN, cùng các nước thành viên nỗ lực đưa con tàu ASEAN vượt qua sóng gió, chủ động ứng phó và thích ứng với bối cảnh mới, giữ vững đà hợp tác và liên kết khu vực, khẳng định được vai trò trung tâm và nâng cao vị thế của ASEAN.

Nhiều sáng kiến quan trọng năm 2020 đã trở thành tài sản chung của ASEAN như Quỹ ASEAN ứng phó COVID-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung phục hồi tổng thể ASEAN...

Năm 2022, với chủ đề “ASEAN hành động cùng ứng phó các thách thức,” Việt Nam tiếp tục “đóng góp chủ động, ứng xử tích cực và sẻ chia trách nhiệm,” cùng các nước thành viên vượt qua thử thách, giữ vững đoàn kết, tiếp nối đà xây dựng Cộng đồng và đẩy mạnh liên kết khu vực, ứng phó có hiệu quả thách thức đang nổi lên, củng cố vai trò trung tâm và vị thế, tiếng nói của ASEAN trên trường quốc tế.

Với tư duy chủ động, tích cực, tin cậy và có trách nhiệm, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục cùng các nước thành viên nỗ lực triển khai hiệu quả các sáng kiến và thỏa thuận hợp tác, đóng góp thiết thực vào giải quyết các vấn đề chung của ASEAN và khu vực.

Bên cạnh những đóng góp to lớn cho ASEAN, Việt Nam cũng nhận được nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, ASEAN là một trong những nền tảng quan trọng để Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc tham gia ASEAN giúp Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, huy động các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao sức mạnh tổng hợp.

Cùng với đó, Việt Nam cũng từng bước nâng tầm đối ngoại đa phương, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Mặt khác, quá trình tham gia ASEAN 27 năm qua đã giúp Việt Nam tạo dựng nội lực mạnh mẽ trong tiến trình hội nhập, nâng cao tầm vóc đất nước trên trường quốc tế.

Hợp tác kinh tế-thương mại Việt Nam-ASEAN ngày càng phát triển


Sau 27 năm tham gia ASEAN, quan hệ kinh tế-thương mại của Việt Nam-ASEAN đã có sự phát triển vượt bậc, cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Năm 1996, khi Việt Nam mới tham gia Khối thương mại tự do ASEAN (AFTA), thương mại hai chiều của Việt Nam với các nước trong khối mới chỉ đạt khoảng gần 6 tỷ USD, nhưng đến nay, con số này đã tăng tới hơn 10 lần, trung bình khoảng 60 tỷ USD.

 

Viet Nam - thanh vien nong cot trong su phat trien cua ASEAN hinh anh 1
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chuyển giao vai trò Chủ tịch ASEAN cho Brunei theo hình thức trực tuyến tại Lễ Bế mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN 37 và các Hội nghị Cấp cao liên quan. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Đặc biệt, trong giai đoạn 2010-2021, thương mại giữa Việt Nam và ASEAN đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Trong đó xuất khẩu tăng từ 9,3 tỷ USD năm 2010 lên mức 29,1 tỷ USD vào năm 2021. Việt Nam cũng tăng nhập khẩu từ khối ASEAN, từ mức 14,5 tỷ USD năm 2010 lên 41,1 tỷ USD vào năm 2021, tăng 26,6 tỷ USD.

Năm 2021, Thái Lan là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN, đạt 6,1 tỷ USD, chiếm 20% thị phần; tiếp theo là Campuchia, đạt 4,8 tỷ USD; Philippines đạt 4,5 tỷ USD; Myanmar đạt 4,4 tỷ USD…

Các mặt hàng công nghiệp Việt Nam như máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác… là những sản phẩm xuất khẩu chiếm kim ngạch lớn nhất.

Gạo Việt Nam là mặt hàng nông sản xuất khẩu chính sang ASEAN. Trong đó Philippines là quốc gia nhập khẩu gạo Việt lớn nhất khối và trên thế giới (năm 2021 đạt 2,4 triệu tấn, tương ứng 1,2 tỷ USD, chiếm lần lượt 38% và 37% thị phần).

Trong năm 2022, Việt Nam và các nước ASEAN tiếp tục đẩy mạnh hợp tác đầu tư và thương mại giữa các bên; xúc tiến thương mại, hợp tác, kết nối cho các doanh nghiệp nội khối,...

Trong bối cảnh tình hình trên thế giới và trong khu vực có nhiều biến động phức tạp, ASEAN đang đứng trước những cơ hội và thách thức về khả năng ứng phó trước các tình huống khẩn cấp, xây dựng một cộng đồng tự cường và vững mạnh. ASEAN luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Một Cộng đồng ASEAN lớn mạnh và tự cường sẽ là chỗ dựa vững chắc của Việt Nam để cùng vượt qua những khó khăn, sóng gió ngày càng lớn trong thời gian tới.

Với phương châm chủ động, tích cực và trách nhiệm, Việt Nam sẽ tiếp tục cùng các nước thành viên ASEAN tăng cường liên kết và hợp tác ASEAN, nâng cao đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN, vì mục tiêu chung là hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng ở khu vực và thế giới./.

Theo TTXVN

Phản hồi

Các tin khác

Thủ tướng: Quốc tế đánh giá cao triển vọng phát triển của Việt Nam

Ngày 3/8, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 7. Phiên họp được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến giữa Trụ sở Chính phủ với Ủy ban Nhân dân 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Dự họp tại đầu cầu Trụ sở Chính phủ có các Phó Thủ tướng: Phạm Bình Minh, Lê Minh Khái, Vũ Đức Đam, Lê Văn Thành; các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quang ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Tại đầu cầu 63 tỉnh, thành phố có Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố. Tại phiên họp, trong buổi sáng, Chính phủ nghe, thảo luận phân tích nguyên nhân khách quan, chủ quan của thành tựu, đặc biệt là khó khăn, hạn chế; rút ra bài học kinh nghiệm về tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2022; tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ; tình hình triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; tình hình công tác phòng, chống dịch COVID-19. Bên cạnh đó đề ra nhiệm vụ, giải pháp thực hiện các nhiệm vụ cho tháng 8 và thời gian tiếp theo. Ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong bối cảnh, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là xung đột Nga-Ukraine; lạm phát nhiều nước tăng; rủi ro bất ổn tài chính, tiền tệ; nguy cơ suy thoái tại một số nền kinh tế... tác động mạnh đến nước ta với quy mô kinh tế còn nhỏ, sức chống chịu trước những cú sốc chưa cao. Tuy nhiên, với việc triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp, tập trung giải quyết hiệu quả các vấn đề quan trọng và xử lý các vấn đề phát sinh, kinh tế-xã hội trong nước tiếp tục khởi sắc, đạt kết quả tích cực trên các ngành, lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo; thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, tín dụng tăng 9,42%; lãi suất, tỷ giá duy trì hợp lý. [Báo Đức: Kinh tế Việt Nam phát triển trên nền tảng vững chắc] Chỉ số CPI tháng 7 tăng 0,4% so tháng trước, tăng 3,14% so cùng kỳ, bình quân 7 tháng tăng 2,54%. Thu ngân sách Nhà nước 7 tháng ước đạt 77,5% dự toán, tăng 18,1%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, chỉ số IIP tháng 7 tăng 1,6% so tháng trước, tăng 11,2% so cùng kỳ và 7 tháng tăng 8,8%; 61/63 tỉnh, thành phố có chỉ số công nghiệp 7 tháng tăng. Xuất nhập khẩu tháng 7 tăng 6,1%, 7 tháng tăng 14,8%; 7 tháng xuất khẩu 216,35 tỷ USD (tăng 16,1%), nhập khẩu 215,59 tỷ USD (tăng 13,6%), xuất siêu 764 triệu USD. Thương mại, dịch vụ phục hồi mạnh mẽ: Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tháng 7 đạt 486 nghìn tỷ đồng, tăng 42,6% so cùng kỳ; 7 tháng đạt 3.205 nghìn tỷ đồng, tăng 16% (gấp 1,5 lần cùng kỳ các năm 2018-2019). Khách quốc tế tháng 7 đạt 352,6 nghìn lượt người, tăng 49% so tháng trước; 7 tháng gấp 10 lần cùng kỳ năm 2021. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong tháng 7 là 13,2 nghìn doanh nghiệp, 7 tháng là 89,4 nghìn doanh nghiệp (tăng 17,9% so cùng kỳ). Giải ngân vốn ngân sách Nhà nước tháng 7 đạt 46,2 nghìn tỷ đồng, tăng 22,5% so cùng kỳ. An sinh xã hội được bảo đảm. Quốc phòng an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Đáng chú ý, nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài được chỉ đạo giải quyết như phương án xử lý đối với 2 ngân hàng kiểm soát đặc biệt; nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, Long Phú 1; các dự án thuộc Trung tâm Điện lực Ô Môn; dự án Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2; Hồ Thủy lợi Bản Mồng... Dịch COVID-19 có xu hướng tăng trở lại Về dịch COVID-19, Bộ Y tế cho biết 7 tháng đầu năm 2022, cả nước ghi nhận hơn 9 triệu ca mắc, hơn 8,5 triệu người khỏi bệnh, gần 11 nghìn ca tử vong, chiếm 0,1%. Thu tuong: Quoc te danh gia cao trien vong phat trien cua Viet Nam hinh anh 2 Thủ tướng Phạm Minh Chính điều hành phiên họp. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN) Riêng trong tháng 7, cả nước ghi nhận hơn 33.000 ca mắc, 6 ca tử vong; số mắc mới trung bình 1.000 ca mắc mỗi ngày. So với tháng trước, số mắc tăng 22,4%, tử vong giảm 2 ca, tỷ lệ chết/mắc là 0,02%, thấp hơn nhiều so với trung bình thế giới là xấp xỉ 1,2%. Đối với việc tiêm vaccine, tính đến hết ngày 31/7, Việt Nam đã triển khai tiêm được hơn 246 triệu liều vaccine phòng COVID-19 và là một trong số những quốc gia có số liều vaccine sử dụng và tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên thế giới được WHO ghi nhận. Đáng chú ý, tiến độ tiêm chủng có xu hướng tăng trở lại trong thời gian gần đây. Trong nửa cuối tháng 7/2022, cả nước triển khai tiêm được hơn 7,7 triệu liều vaccine, tăng 34% so với nửa đầu tháng 7/2022. Không ít khó khăn, hạn chế Tại phiên họp, các đại biểu cũng nêu một số khó khăn, thách thức cần khắc phục như: tình hình thế giới dự báo tiềm ẩn nhiều biến động, rủi ro và khiến ổn định kinh tế vĩ mô trong nước gặp nhiều thách thức, đặc biệt áp lực lạm phát gia tăng; việc triển khai các chương trình quốc gia, giải ngân vốn đầu tư công, xây dựng văn bản hướng dẫn và giải ngân vốn một số chính sách trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội còn chậm. Thu tuong: Quoc te danh gia cao trien vong phat trien cua Viet Nam hinh anh 3 Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan báo cáo công tác phòng, chống dịch COVID-19. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN) Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn. Đáng chú ý, hiện có 41/51 bộ, cơ quan trung ương và 18/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới mức trung bình cả nước; 17 bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân dưới 10% kế hoạch. Bên cạnh đó, số ca mắc COVID-19 tăng do sự xuất hiện của biến chủng mới. Công tác tiêm vaccine phòng COVID-19 tại một số địa phương chưa đạt mục tiêu đề ra. Tình trạng thiếu thuốc điều trị, trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế ở một số bệnh viện, địa phương chưa được xử lý dứt điểm... Quốc tế đánh giá cao triển vọng phát triển của Việt Nam Phát biểu kết luận nội dung họp buổi sáng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, trong tháng 7, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết, Kết luận, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ; đồng thời, bám sát tình hình thực tiễn, biến động nhanh trên thế giới, có giải pháp linh hoạt, phù hợp, sáng tạo, hiệu quả, sát tình hình, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng. Thu tuong: Quoc te danh gia cao trien vong phat trien cua Viet Nam hinh anh 4 Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc phát biểu. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN) Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến động phức tạp, khó lường và tác động lớn đến kinh tế-xã hội trong nước, kết quả đạt được trong tháng 7 và 7 tháng rất đáng mừng; nhiều chỉ số kinh tế-xã hội rất tích cực, nhiều ngành kinh tế phục hồi và phát triển mạnh. Nhìn chung, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo niềm tin và nền tảng quan trọng để tiếp tục phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế-xã hội. Theo Thủ tướng, nhiều tổ chức, chuyên gia quốc tế uy tín đã đánh giá cao kết quả đạt được và triển vọng phát triển của Việt Nam. Theo đó, ngân hàng Standard Chartered dự báo GDP Việt Nam tăng 10,8% trong quý 3 và 3,9% trong quý 4, cả năm đạt 6,7%; Quỹ VinaCapital dự báo GDP quý 3 tăng 10%, cả năm 2022 tăng 7,5% so với cùng kỳ; HSBC nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2022 lên 6,9%, thay mức 6,6% trước đây; ADB vẫn giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,5% trong năm nay và 6,7% trong năm sau. Thủ tướng Chính phủ khẳng định những kết quả đạt được là do sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng các quyết sách quan trọng của Nhà nước, trong đó có các Nghị quyết của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị cùng cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân cả nước và sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế. Thực hiện đồng thời nhiệm vụ thường xuyên, tồn động và phát sinh Về nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, trên cơ sở ý kiến thảo luận của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và phân tích, nhận định tình hình, nhất là về những khó khăn, hạn chế, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu các cấp, các ngành phải vừa tập trung triển khai các nhiệm vụ, kế hoạch đã đề ra, vừa nỗ lực khắc phục những hạn chế, bất cập, giải quyết các vấn đề tồn đọng kéo dài, vừa xử lý các vấn đề mới, phát sinh. Trong đó, thực hiện: 4 ổn định, 3 tăng cường, 2 đẩy mạnh, 1 tiết giảm và 1 không. Theo đó, bốn ổn định gồm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn; ổn định các loại thị trường; ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; ổn định đời sống vật chất, tinh thần nhân dân. Ba tăng cường gồm tăng cường nắm tình hình; tăng cường y tế dự phòng, y tế cơ sở, tiêm vaccine; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nhất là trong hệ thống hành chính. Hai đẩy mạnh gồm: đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát triển doanh nghiệp, tạo công ăn, việc làm, đi đôi với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, nhất là đầu tư công và công tác quy hoạch. Một tiết giảm là tiết giảm chi tiêu đối với những khoản không cần thiết. Một kiên quyết không là không điều hành giật cục. Về các nhiệm vụ cụ thể, Thủ tướng yêu cầu tập trung công tác xây dựng hoàn thiện thể chế, bảo đảm chất lượng, tiến độ các đề án trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội; tập trung triển khai, thể chế hóa, cụ thể hóa các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội. Bên cạnh đó, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; chú trọng phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, hài hòa với phát triển kinh tế; tăng cường quốc phòng an ninh; đẩy mạnh công tác đối ngoại, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tăng cường công tác thông tin truyền thông, tạo động lực, niềm tin, cảm hứng cho nhân dân; vô hiệu hóa các thông tin xuyên tạc, độc hại... “Trong bối cảnh tình hình mới, nhiệm vụ đặt ra thời gian tới là hết sức nặng nề. Chúng ta cần phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, vai trò gương mẫu của người đứng đầu; bám sát thực tiễn, xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả...,” Thủ tướng yêu cầu. Buổi chiều, Chính phủ tiếp tục tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công và tình hình triển khai 3 chương trình mục tiêu quốc gia. TTXVN tiếp tục cập nhật thông tin về phiên họp./. Phạm Tiếp (TTXVN

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất