Hiệp định thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu với Việt Nam (EVFTA)
sau khi được ký kết sẽ khuyến khích hai làn sóng đầu tư của các doanh
nghiệp châu Âu vào Việt Nam.
Đó là nhận định của ông Vincent Repay,
một chuyên gia với gần 30 năm kinh nghiệp trong lĩnh vực hợp đồng quốc
tế, giảng dạy về thương mại quốc tế tại Bỉ và hơn 10 năm tham gia đào
tạo về kinh tế thị trường cho các cán bộ lãnh đạo trẻ của Việt Nam.
Chuyên
gia Vincent Repay cho rằng làn sóng đầu tư thứ nhất bước đầu đã có thể
nhận thấy được và chỉ mang tính ngắn hạn. Đó là trào lưu dịch chuyển của
một số công ty sản xuất từ châu Âu sang Việt Nam vì yếu tố chi phí sản
xuất rất cạnh tranh, cùng với đó là thuế nhập khẩu hàng hóa từ châu Âu
sẽ được cắt giảm mạnh và thậm chí bằng không.
Các
nhà đầu tư vì yếu tố chi phí sản xuất rẻ và thuế suất thấp thường tiến
hành đầu tư nhanh chóng để đảm bảo thu được lợi nhuận, nhờ tận dụng
nguồn nhân lực có chất lượng của Việt Nam.
Với
làn sóng dịch chuyển sản xuất của doanh nghiệp châu Âu, Việt Nam được
hưởng lợi nhờ có thêm nhiều việc làm cho nguồn nhân lực trẻ, đông đảo và
được đào tạo với chi phí cạnh tranh.
Lợi
thế về nguồn nhân lực cũng chính là yếu tố đóng góp cho sự phát triển
nền kinh tế quốc dân trong khi chờ đợi sự bùng nổ để trở thành một nền
kinh tế mạnh của khu vực.
Làn sóng
đầu tư thứ hai sẽ hấp dẫn hơn trong trung hạn và dài hạn đối với Việt
Nam. Đó là sự xuất hiện của các doanh nghiệp châu Âu với những sản phẩm
đáp ứng cho nhu cầu trung và dài hạn của thị trường Việt Nam.
Các
doanh nghiệp này sẽ tập trung vào cải thiện năng lực sản xuất, có thể
kết hợp với các sản phẩm có xuất xứ nước ngoài, để đáp ứng nhu cầu của
thị trường Việt Nam bằng những sản phẩm chất lượng cao.
Theo
ông Repay, Việt Nam vẫn còn là thị trường khá khó khăn đối với các nhà
đầu tư không phải người Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam mang đặc điểm
riêng, kết hợp giữa các đặc thù châu Á và mô hình kinh tế kế hoạch hóa
vốn đã được chứng minh có khả năng vực dậy nền kinh tế đất nước.
Việt
Nam cũng thu được thành công khi áp dụng một cách sáng suốt các cơ chế
tài chính quốc tế chủ yếu đến từ các nước châu Á trong những năm qua. Sự
gần gũi về địa lý với Trung Quốc đã ảnh hưởng đến Việt Nam theo hướng
chú trọng nhiều đến yếu tố giá cả hơn là chất lượng.
Ông
Repay khuyến cáo Việt Nam cần nâng cao khả năng đánh giá mối quan hệ
giữa chất lượng và giá cả của các nhà cung cấp để tránh việc mua phải
những sản phẩm không bền vững, hoặc không đáp ứng nhu cầu xuất khẩu dù
giá cả có vẻ rẻ.
Rất nhiều nhà sản
xuất phụ trợ của Việt Nam đang phát triển chất lượng sản xuất cao hơn
nhiều so với các nước có giá thành thấp. Theo ông Vincent Repay, vấn đề
cấp bách đặt ra đối với các nhà sản xuất Việt Nam là cần gắn kết các dự
án chất lượng với các đối tác châu Âu, ngay cả khi giá cả có cao hơn ít
nhiều nhưng tất nhiên là không đến mức bị loại khi xét về yếu tố giá.
Liên
quan đến nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, vấn đề mà các doanh nghiệp Việt
Nam rất quan tâm, ông Repay cho biết thực tế tại châu Âu khác xa so với
châu Á.
Xuất xứ của một sản phẩm,
theo thực tiễn tại Liên minh châu Âu (EU), là đất nước tại đó sản phẩm
được sản xuất hoặc lắp ráp, trừ trường hợp đặc biệt khi một doanh nghiệp
châu Âu thiết kế một sản phẩm và gửi nguyên vật liệu dùng để sản xuất
ra sản phẩm theo thiết kế, sau đó tái nhập thành phẩm về EU. Khi tái
nhập thành phẩm, doanh nghiệp chỉ phải nộp thuế nhập khẩu và thuế giá
trị gia tăng đối với chi phí vận chuyển và phần giá trị gia công tại
Việt Nam của sản phẩm đó.
Chuyên gia
Vincent Repay khẳng định không thể có chuyện một doanh nghiệp thuộc EU
có thể chuyển trực tiếp hàng hóa gia công từ Việt Nam đến một nước khác
ngoài EU mà sản phẩm lại có thể mang nhãn “sản xuất tại EU” được. Từ đó,
ông cho rằng để đạt được thành công thì mục tiêu chính mà Việt Nam cần
hướng tới là phải giành được sự công nhận về chất lượng.
Điều
quan trọng nữa là cần làm chủ khả năng quản lý chất lượng trong sản
xuất với quy mô vừa phải và định hướng vào các nhu cầu chuyên biệt, chấp
nhận sự linh hoạt với mức giá và lợi nhuận biên ổn định.
Việc
xác định đặt yếu tố chất lượng là mục tiêu dài hạn, tăng cường hợp tác
với các doanh nghiệp thuộc EU, song song với tiếp cận các chương trình
đào tạo cho các nước đối tác do các thể chế thuộc EU và các nước thành
viên tổ chức sẽ góp phần bảo đảm thành công về kinh tế.
Từ
nhiều năm nay, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ. Kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ
hai chiều hiện nay đã lên tới khoảng 40 tỷ euro mỗi năm.
Theo
dự đoán, trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa EU và Việt Nam có thể đạt mức
100 tỷ euro/năm vào năm 2025. Như vậy, nếu tận dụng được quan hệ đối tác
tự do thương mại rất tiềm năng này thì quan hệ kinh tế giữa hai bên sẽ
phát triển lên một tầm cao mới.
Kim Chung (TTXVN)