Thứ Bảy, 23/11/2024
Xã hội
Thứ Năm, 1/8/2019 14:39'(GMT+7)

Xây dựng nông thôn mới ở Đồng Nai - những thành tựu và thách thức

Phát triển NTM tại Đồng Nai với mục tiêu trọng tâm tạo cơ chế thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh: BCT

Phát triển NTM tại Đồng Nai với mục tiêu trọng tâm tạo cơ chế thu hút đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh: BCT

Đồng Nai với diện tích đất nông nghiệp chiếm hơn 70% diện tích toàn tỉnh, hơn 60% dân số sống ở vùng nông thôn; cơ cấu kinh tế công nghiệp và dịch vụ chiếm 94%, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 6%. Mặc dù, là tỉnh công nghiệp, dịch vụ, song Đồng Nai luôn coi trọng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, coi nông nghiệp, nông thôn là yếu tố quan trọng trong phát triển bền vững của tỉnh.

Với nhận thức đó, Trước khi thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Trung ương, tỉnh đã chủ động phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa và thực hiện nông thôn "4 có" (có đời sống kinh tế được cải thiện, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, có đời sống văn hóa tốt, an ninh – an toàn đảm bảo, có môi trường sinh thái tốt). Chính nhờ điểm xuất phát sớm này, tỉnh Đồng Nai đã có những điều kiện thuận lợi ban đầu cho việc thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Trung ương và Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Đồng Nai thực hiện với tinh thần chủ động, quyết tâm, quyết liệt, trước, trong và sau đạt chuẩn.

Đoàn thẩm định nông thôn mới Trung ương trong chuyến thẩm định tại huyện Định Quán. Ảnh: Báo Đồng Nai.

Đoàn thẩm định nông thôn mới Trung ương trong chuyến thẩm định tại huyện Định Quán. Ảnh: Báo Đồng Nai.

Chương trình đã đạt được kết quả quan trọng, có ý nghĩa lớn tạo dấu ấn trong cuộc cách mạng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Trung ương, với nhiều kết quả nổi bật, góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của tỉnh. Bộ mặt nông thôn trên địa bàn có sự chuyển biến tích cực đổi mới rõ nét: sản xuất phát triển ổn định, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển đồng bộ, kết nối giữa các trung tâm, hệ thống trường học có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia, hệ thống y tế đạt chuẩn, môi trường sinh thái có bước cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 6,62% năm 2011 xuống còn 0,09% năm 2019, an ninh trật tự chính trị được giữ vững, đời sống vật chất tinh thần người dân khu vực nông thôn được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2019 đạt 51,59 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 2,28 lần so với năm 2011.

Thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến nay, toàn tỉnh có 133/133 xã đạt chuẩn nông thôn mới (tỷ lệ 100%), trong đó có 31 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 11/11 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới (tỷ lệ 100%), đặc biệt, tỉnh đã hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị Trung ương xét công nhận tỉnh Đồng Nai hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. 

Từ thực tiễn xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, Đồng Nai rút ra một số kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo trong đó bài học đầu tiên và quan trọng nhất là “nơi nào cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, quyết đoán trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một cách thống nhất, đồng bộ, xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng địa bàn thì nơi đó tình hình có sự chuyển biến tốt và đạt kết quả cao”.

Từ bài học này ta thấy rõ, cấp ủy Đảng với tư cách là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, có một vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định trong xây dựng nông thôn mới. Đồng Nai luôn đề cao vai trò của cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu trong xây dựng nông thôn mới. Trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới, một số cán bộ, nhất là người đứng đầu còn tư tưởng chần chừ, thiếu quyết liệt nên kết quả xây dựng nông thôn mới chậm chuyển biến. Vì vậy công tác cán bộ luôn được cấp ủy quan tâm hàng đầu.

Thị xã Long Khánh, đặc biệt là huyện Xuân Lộc đã thực hiện “quyết liệt và mạnh tay” đối với công tác cán bộ. Trong 5 năm, Xuân Lộc đã luân chuyển 8 chủ tịch, bí thư của 8/12 xã; đối với Long Khánh là 4/9 xã. Nhờ cách làm này, tình hình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn chuyển biến rất nhanh; xóa đi tư tưởng trông chờ, ỷ lại của đội ngũ cán bộ cấp xã. Từ kinh nghiệm này, hiện nay các huyện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã làm khá tốt công tác luân chuyển cán bộ giữa cấp huyện và cấp xã. 

Ngoài vai trò quan trọng của các cấp ủy Đảng, công tác tổ chức thực hiện của chính quyền, đoàn thể trong xây dựng nông thôn mới cũng góp phần không nhỏ đến kết quả xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, cụ thể: Ngay sau khi Trung ương ban hành Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, tỉnh đã kịp thời cụ thể hóa bằng Kế hoạch, Chương trình và Bộ tiêu chí nông thôn mới các giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020 của tỉnh để tổ chức thực hiện. So với Trung ương, bộ tiêu chí của tỉnh nhiều hơn về số lượng chỉ tiêu và có một số chỉ tiêu yêu cầu đạt ở mức cao hơn. Sau khi có 15 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tỉnh đã chủ động chủ trương ban hành Bộ tiêu chí nông thôn mới nâng cao, để nông thôn mới được tiếp tục phát triển, tránh tình trạng bằng lòng, thỏa mãn sau đạt chuẩn. Vì nếu không kịp thời chỉ đạo đối với công tác này, thì nông thôn mới sẽ có nguy cơ chững lại và tụt hậu.

Trong lãnh đạo chỉ đạo, tỉnh đã thành lập “Ban Chỉ đạo nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020” ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã; bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp. Thành lập Văn phòng Điều phối cấp tỉnh, 11 Văn phòng Điều phối cấp huyện và bố trí cán bộ chuyên trách cho 100% số xã xây dựng nông thôn mới.

Để quản lý, điều hành thực hiện Chương trình, song song việc kiện toàn, củng cố nhân sự Ban Chỉ đạo tỉnh, ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo tỉnh trong đó phân công, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Trưởng ban, các Phó trưởng ban và các thành viên nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cũng như trong phối hợp tổ chức thực hiện. Ban Chỉ đạo tỉnh duy trì tốt chế độ họp thường kỳ cũng như đột xuất, tổ chức thực hiện phối hợp tốt các nhiệm vụ giữa các thành viên Ban Chỉ đạo, giữa Ban Chỉ đạo đối với các sở, ngành và với các địa phương; thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các mục tiêu, kế hoạch Chương trình; báo cáo xin ý kiến Tỉnh ủy, UBND tỉnh cũng như chỉ đạo kịp thời các sở, ban, ngành tỉnh, các địa phương trong thực hiện Chương trình.

Nhìn chung, kết quả quản lý, điều hành thực hiện Chương trình thời gian qua đạt kết quả tốt: đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; sơ kết hàng năm thực hiện Chương trình, đánh giá về kết quả thực hiện, đề ra các nhiệm vụ chương trình, kế hoạch và giải pháp thực hiện tiếp theo; giải quyết, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc phát sinh, chất lượng hoạt động của các thành viên Ban Chỉ đạo được nâng lên rõ rệt, sự phối hợp của các cơ quan các cấp, các ngành đồng bộ, chặt chẽ hơn

Trong tổ chức triển khai thực hiện Chương trình, tỉnh chọn 34 xã và 01 huyện (huyện Xuân Lộc) để chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm khi triển khai rộng: tỉnh chọn điểm không chỉ đối với các xã thuận lợi mà cả đối với các xã miền núi, khó khăn và chọn huyện Xuân Lộc là huyện thuần nông, có xuất phát điểm thấp, để vừa phong phú về kinh nghiệm, vừa tạo điểm nhấn trong thực hiện Chương trình. Từ đó, tạo động lực, khích lệ đối với tất cả các địa phương trong tỉnh, tích cực, đẩy nhanh tiến độ thực hiện xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, tỉnh chọn giải pháp chính yếu, trung tâm để ưu tiên thực hiện: chọn phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập là giải pháp hàng đầu, là cái gốc, là nguồn đầu tư chủ động và ổn định để xây dựng nông thôn mới.

Bên cạnh thành quả đạt được, thực hiện Chương trình nông thôn mới tỉnh Đồng Nai còn những khó khăn tồn tại, hạn chế:

- Sản xuất nông nghiệp phát triển chưa thật bền vững; các xã vùng saau, vùng xa cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, công nghiệp, thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng còn thấp; chuỗi liên kết sản xuất với tiêu thụ, mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch phát triển chưa mạnh, thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa thật sự ổn định; việc xây dựng và phát triển thương hiệu, giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hóa có thế mạnh của tỉnh còn hạn chế.

- Nông thôn đã có bước đổi mới và phát triển nhưng cảnh quan môi trường một số nơi chưa thật sự sáng – xanh – sạch – đẹp; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn có bước phát triển, nhưng chưa mang tính hiện đại; hoạt động hệ thống nhà văn hóa, nhất là nhà văn hóa ấp hiệu quả nhìn chung chưa cao. Công tác duy tu bảo dưỡng các công trình sau đầu tư còn chưa được thường xuyên, kịp thời.

- Một số địa phương tuy đạt chuẩn, nhưng có tiêu chí chất lượng, tính bền vững chưa cao, tiêu chí đạt được mới xấp xỉ ở mức quy định (tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế, tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi); an ninh trật tự, an toàn xã hội khu vực nông thôn còn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, nhất là các vùng khu công nghiệp tập trung, các khu vực dịch vụ phát triển, khu vực dọc các tuyến đường quốc lộ.

- Đời sống của người nông dân tuy được cải thiện đáng kể nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với tiềm năng, nhất là đối với những hộ thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp thuần túy. Ô nhiễm môi trường trong lĩnh vực sản xuất, chăn nuôi vẫn còn, xử lý rác sinh hoạt trong khu dân cư còn nhiều khó khăn, cấp nước sạch sinh hoạt tập trung còn thấp, nhất là vùng sâu, vùng xa.

- Vai trò chủ thể của người dân ở một số nơi chưa nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong xây dựng nông thôn mới nên việc tham gia vẫn còn hạn chế, chưa huy động được tối đa các nguồn lực ở cộng đồng dân cư.

Để nông thôn mới tiếp tục phát triển theo hướng ổn định và bền vững, tỉnh Đồng Nai đề xuất một số giải pháp chủ yếu cần được quan tâm thực hiện giai đoạn tiếp theo:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để thường xuyên nâng cao nhận thức của cộng đồng về vị trí, vai trò, ý nghĩa của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; đặc biệt là yêu cầu đặt ra về xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn mới, nhất là vai trò chủ thể của người dân khu vực nông thôn; khơi dậy ở người dân tinh thần chủ động, tự lực, tự cường chung tay xây dựng nông thôn mới.

Hai là, tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Trong đó ưu tiên đầu tư những dự án quan trọng, có tính kết nối vùng, tạo sự đột phá và có tác động lan tỏa lớn, thúc đẩy mạnh sự phát triển chung, như: hệ thống đường huyện, tỉnh quản lý, đặc biệt hệ thống giao thông liên xã, làm hạt nhân thúc đẩy phát triển sản xuất, vận chuyển hàng hóa, giao lưu giữa các vùng; phát triển mạnh hệ thống các bệnh viện, phòng khám đa khoa; nâng cấp mạng lưới điện, nhất là điện phục vụ cho sản xuất; xây dựng, củng cố các chợ hoạt động theo hướng văn minh hiện đại; xây dựng hệ thống thủy lợi qui mô lớn, hạn chế dần việc khai thác nước ngầm, phát triển hệ thống điện, thường xuyên đảm bảo tốt cho nhu cầu sàn xuất và sinh hoạt đời sống dân sinh.

Ba là, tập trung phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, xem đây là cái gốc để đầu tư xây dựng và phát triển nông thôn mới: tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất nông nghiệp; tập trung làm nông nghiệp sạch và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật theo định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao; phát triển, mở rộng các mô hình liên kết gắn chặt giữa sản xuất với tiêu thụ để phát triển sản xuất bền vững; đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại, kinh tế vườn, gắn phát triển kinh tế vườn với chỉnh trang nhà vườn theo tiêu chí nông thôn mới; đẩy mạnh cơ giới hóa; đầu tư các vùng chăn nuôi tập trung; phát triển các gia trại, trang trại; ưu tiên phát triển chăn nuôi khép kín, ứng dụng công nghệ cao; phát triển các khu giết mổ gia súc gia cầm tập trung gắn với việc quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm. Song song, cần chú trọng đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến (chế biến sâu, chế biến tinh), để công nghiệp - dịch vụ hỗ trợ đắc lực trở lại cho nông nghiệp, nông thôn; tập trung thực hiện tốt Chương trình Một xã một sản phẩm - OCOP. 

Bốn là, đẩy mạnh phát triển văn hóa xã hội: tiếp tục chăm lo tốt công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và  thực hiện thoát nghèo bền vững. Phát triển y tế theo hướng đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, tăng cường trách nhiệm y đức, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nhằm nâng cao tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế. Đầu tư quản lý, khai thác hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa, các hoạt động thể thao, đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; trong đó, xác định gia đình là hạt nhân nòng cốt thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn nề nếp gia phong, vận động con cháu sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật; tăng cường tình đoàn kết cộng đồng, góp phần hình thành các giá trị văn hóa mới trong cộng đồng dân cư. 

Năm là, thường xuyên thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm và hành động của người dân, doanh nghiệp, cộng đồng về giữ gìn vệ sinh môi trường. Tập trung chỉnh trang nông thôn: triển khai xây dựng các khu dân cư theo đúng quy hoạch được duyệt và quản lý thực hiện theo quy hoạch; vận động, hướng dẫn hộ gia đình chỉnh trang khuôn viên nhà ở gắn phát triển kinh tế vườn với chỉnh trang nhà vườn theo tiêu chí nông thôn mới; đầu tư hệ thống điện chiếu sáng, trồng cây, hoa, đảm bảo vệ sinh hai bên đường giao thông (phát động nhân rộng mô hình ánh sáng đường quê và thực hiện mô hình tuyến đường tự quản). Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức thu gom, xử lý rác thải, chất thải phù hợp, hiệu quả đối với từng khu vực: khu vực đông dân cư, khu dân cư phân tán, các khu, cụm công nghiệp, khu chăn nuôi, giết mổ tập trung và thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các nguồn gây ô nhiễm môi trường. 

Sáu là, tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với việc thực hiện Chương trình nông thôn mới; nhất là phát huy vai trò của người đứng đầu và xử lý cán bộ không đủ khả năng đảm nhận nhiệm vụ. Đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức; cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động có trình độ nghề cao; phát huy vai trò chủ thể của người nông dân. Thực hiện hiệu quả các đề án, phương án, kế hoạch về công tác bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. Củng cố, nhân rộng các mô hình quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở./.

Huỳnh Thành Vinh

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đồng Nai 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất