Ngày 19/5 hằng năm, cả nước ta tưng bừng Kỷ
niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc -
Danh nhân Văn hóa kiệt xuất - Nhà thơ Hồ Chí Minh. Trong lòng mỗi người
chúng ta lại thầm nghĩ về Bác - trong sự nghiệp cách mạng cao cả, vĩ đại
của Người, trong cuộc sống thanh tao, đạm bạc, ung dung, tự tại của
Người. Và với riêng mỗi chúng ta, những người hoạt động trong lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, những gì mà Bác Hồ đã ân cần nhắc nhở, dạy dỗ - vừa
với tư cách là lãnh tụ, vừa là một nhà văn hóa lớn - hơn bao giờ hết,
lại càng trở nên gần gũi.
1. Trong Nhật ký trong tù, Bác Hồ đã viết:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Có lẽ, vốn sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng trong tiếng ru của mẹ
với những câu hò, ví giặm, những điệu hát phường vải bay bổng trên dòng
sông Lam xứ Nghệ; lại được tiếp xúc với bao nhiêu nhà chí sĩ yêu nước -
vừa là những nhà hoạt động cách mạng, vừa là những nhà thơ đầy khí
phách, tâm huyết - Chủ tịch Hồ Chí Minh phải là người rất mê thơ, sành
điệu về thơ và cũng đầy cảm xúc thi ca. Nhưng cuộc đời hoạt động cách
mạng đầy gian truân, thử thách, chông gai đã buộc Người phải tạm quên
thơ ca. Và chỉ khi đã bị kẻ địch cầm tù, Bác Hồ mới tiếp tục “ngâm thơ”,
“làm thơ”, vừa để nâng cao chí khí của mình, vừa đợi đến ngày tự do để
tiếp tục hoạt động cách mạng, và Nhật ký trong tù đã minh
chứng cho tâm hồn thi sĩ của Bác.
Nhưng trước khi làm thơ, vào những năm
đầu thế kỷ XX, Hồ Chủ tịch đã là một nhà báo lớn, tờ Người cùng khổ
- Le Paria - với nhiều bài viết sắc sảo đầy tính chiến đấu, cùng những
vở kịch, tranh minh họa, tranh châm biếm đả kích bọn đế quốc, thực dân,
đã khẳng định tên tuổi của Người trong giới báo chí tại Pháp. Nhiều bức
tranh đả kích do Người vẽ, đến nay vẫn còn giá trị và cũng chứng minh
tài năng đa dạng của Người.
Sau này, cùng với những hoạt động ở Pháp,
trong mối quan hệ của Bác với những nhà văn hóa, những nhà văn, họa sĩ,
nhà thơ nổi tiếng; Nguyễn Ái Quốc luôn được đánh giá là một người am
hiểu tường tận và sâu sắc cả văn hóa Phương Đông lẫn văn hoá Phương Tây.
2. Ngày 19/12/1946, Toàn quốc Kháng chiến bùng nổ, Hồ Chủ tịch
lại cùng Trung ương Đảng trở về chiến khu Việt Bắc, lãnh đạo cuộc chiến
đấu thần thánh giải phóng dân tộc. Trong trăm công nghìn việc của một
vị lãnh tụ tối cao, Hồ Chủ tịch đã đặt những nền móng đầu tiên cho lý
luận, thực tiễn một nền văn hóa, văn nghệ cách mạng Việt Nam. Năm 1948,
trường Mỹ thuật kháng chiến, rồi các Đoàn văn công - Kịch nói, Ca múa
nhạc, Chèo, Tuồng… cùng các cơ quan văn hóa, văn nghệ ra đời và phát
triển một cách đồng bộ, mạnh mẽ. Rồi nền Điện ảnh non trẻ Việt Nam, nghệ
thuật Nhiếp ảnh thô sơ, tinh giản cũng ra đời.
Nhà điện ảnh Xô-viết nổi tiếng Roman Carmen, người đã làm nên những
thước phim tài liệu lịch sử vô giá về cuộc kháng chiến chống Pháp của
Việt Nam; sau này, trong nhiều hồi ức của mình, đã ca ngợi Bác Hồ là
người rất am hiểu về điện ảnh, và trong nhiều cuộc trao đổi, luận bàn
với Roman Carmen, Người đã có nhiều ý kiến hết sức sâu sắc, quý giá.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Đăng Định (Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật), đã kể nhiều kỷ niệm về Bác, trong đó có câu chuyện: khi
nghe một nghệ sĩ trẻ kêu ca về phương tiện nghèo nàn, khó khăn, Bác đã
hết sức cảm thông, chia sẻ, nhưng rồi Người nói - từ trong cái khó, mới ló cái khôn - và cũng chính từ thời kỳ đó, nền nhiếp ảnh Việt Nam bắt đầu phát triển.
Tóm lại, có thể nói, từ sau ngày Toàn quốc kháng chiến đến chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hồ Chủ tịch là người đã lãnh
đạo, dẫn dắt, đưa đường, chỉ lối, đặt nền móng cho nền văn hóa, văn nghệ
cách mạng Việt Nam.
3. Năm 1955, hòa bình lập lại hoàn toàn trên miền bắc, đất
nước ta bước vào một giai đoạn mới, hàn gắn vết thương chiến tranh, công
nghiệp hóa XHCN, đấu tranh thống nhất nước nhà. Và trong không khí náo
nức, hồ hởi, say mê của cuộc sống mới, cùng với các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, một luồng gió sáng tạo mới trong văn hóa, văn nghệ đã
bừng lên.
Từ năm 1957, các hội sáng tạo văn học, nghệ thuật, mỹ thuật, âm nhạc,
sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, kiến trúc, múa, xiếc, múa rối... rồi các
trường nghệ thuật Sân khấu, Điện ảnh, Múa, các đoàn văn công - Tuồng,
Chèo, Cải lương, Kịch nói, Văn công Nam Bộ, Văn công Liên Khu 5... lần
lượt ra đời.
Trong nhiều tấm ảnh tư liệu quý giá còn lưu giữ đến nay,
hình ảnh Bác Hồ luôn luôn tươi cười xuất hiện cùng anh chị em văn nghệ
sĩ - lúc thì Bác ở trụ sở Liên hiệp Văn học nghệ thuật, lúc thì ở các
trường nghệ thuật, lúc thì múa hát cùng các cháu thiếu nhi, lúc thì ở
đoàn văn công… với những lời dạy dỗ quý báu, chân tình, đầy thương yêu
sâu sắc, cảm thông những khó khăn, thử thách trong công việc lao động
sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, và chính Bác Hồ cũng khẳng định
một vị trí cao quý, vinh quang của người nghệ sĩ cách mạng Việt Nam - Văn hóa, Văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em là những chiến sĩ trên mặt trận ấy.
4. Cũng trong suốt nửa sau của thế kỷ XX cho đến tận
hôm nay, những chỉ thị, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn
hóa, văn nghệ vẫn còn là những bài học lớn.
Đối với giới nghệ sĩ sân
khấu, có một lời nhắn nhủ của Bác - nghe có vẻ nôm na, giản dị, chân
tình, nhưng không kém phần sâu sắc và đầy tính lý luận, đó là sau khi
khen ngợi “Tuồng là tốt đấy, nhưng cần phải cải tiến”, rồi Bác lại thâm
thúy nói tiếp - "nhưng chớ gieo vừng ra ngô”. Càng ngẫm nghĩ lời
Bác, chúng ta càng thấy thấm thía, càng thấy sâu sắc và từ thực tiễn
hoạt động sáng tạo nghệ thuật, quả thật, nhiều lúc chúng ta đã gieo vừng ra ngô mà không hề hay biết.
Đó là có một thời kỳ cải tiến, cách tân dẫn đến phá chèo, mà có người
nói vui là chẹo, chéo, chẽo chứ không còn là Chèo nữa. Người ta biến
chèo thành Kịch có bài hát mới, vừa chắp vá, vừa nhộn nhạo, vừa Ta lại cả vừa Tây.
Người ta đưa cả ca khúc “sến”, với dàn trống Tây, kèn Tây, ghi ta Tây
vào chèo, lấy cớ là ăn khách, để bỏ đi hàng loạt các làn điệu, lời ca
của chèo cổ, cũng như bỏ đi bộ gõ, đàn nguyệt, đàn đáy, nhị, sáo, đàn
bầu... trong sáng tác âm nhạc.
Nhưng rất may, sau một thời gian không lâu láo nháo như thế, chính
người nghệ sĩ cũng đã nhận ra và tự điều chỉnh những quan niệm sáng tạo
về những loại hình nghệ thuật đã có từ ngàn xưa của ông cha. Rõ ràng,
đến nay, sự cách tân của chèo - tiếp thu những tinh hoa của truyền thống
cùng những tìm tòi hiện đại, tiên tiến - đã mang lại những hiệu quả
mới, những dấu ấn mới, những chất liệu mới, mặc dù chặng đường sáng tạo
nghệ thuật, còn rất nhiều khó khăn, thử thách.
Cũng như chèo, nghệ thuật cải lương và ca múa nhạc cũng qua những thời kỳ gieo vừng ra ngô
như thế. Người ta không diễn cải lương mà chỉ cần ca, ca thật hay,
không chỉ đổ sáu câu vọng cổ, mà là bắn hàng trăm chữ liên hồi, liên
tục. Rồi hóa trang, phục trang cứ như tích Tàu, La Mã - xanh xanh, đỏ đỏ
lòe loẹt, kim sa, kim tuyến vô tội vạ.
Trong ca nhạc thì không còn là hát nữa, mà là hú hét điên cuồng,
trang phục hở hang, khêu ngợi, ca từ vô nghĩa, nhảm nhí... Những người
có tâm trong giới văn hóa, văn nghệ và khán giả đều không đồng tình. Báo
chí, công luận lên tiếng kịp thời, đúng lúc. Vì thế, một trật tự, kỷ
cương về văn hóa, văn nghệ đã dần được thiết lập - vừng phải trở lại đúng là vừng, chứ không phải là ngô nữa. Bài học chớ gieo vừng ra ngô của Bác Hồ lại càng thấm thía, sâu sắc hơn bao giờ hết.
Viết về Bác, sự nghiệp, đạo đức của Người, tư tưởng, công lao của
Người với cách mạng Việt Nam, đã có không biết bao nhiêu công trình cả
trong nước và trên thế giới, của các nhà khoa học, văn hóa, văn nghệ
sĩ... lừng danh, mà trong đó, không ít người đã dành cả cuộc đời để
nghiên cứu về Bác. Bởi thế, những dòng viết này của tôi, chỉ là một vài
suy nghĩ, tâm sự của một người nghệ sĩ quê hương xứ Nghệ, đã 50 năm nặng
lòng với văn học, nghệ thuật; để tưởng nhớ Bác Hồ - nhà văn hóa kiệt
xuất, nhà thơ Hồ Chí Minh - môt con người Việt Nam đẹp nhất!
NSND. Lê Huy Quang (nhandan.com.vn)