Chuyển đổi số là
xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới, nhằm tạo sự liên thông, kết
nối liền mạch các dữ liệu và giúp khai thác dữ liệu dễ dàng, có tính
thống nhất, xuyên suốt trong phạm vi quốc gia và từng địa phương. Tại
Việt Nam, ngày 3/6/2020 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
749/QÐ-TTg phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025,
định hướng đến năm 2030" nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ
số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số
Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu; đó là cơ sở quan trọng để Việt Nam
sẽ trở thành "quốc gia số, ổn định và thịnh vượng...".
Tuy
nhiên, gắn liền với chuyển đổi số là yêu cầu về an ninh thông tin để
quản trị rủi ro an toàn thông tin mạng, quản trị rủi ro an toàn số.
Thực tế cho thấy, vấn đề an ninh thông tin đang được đặt ra tại mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành một
bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia. Tầm quan trọng của công tác bảo
đảm an ninh thông tin luôn được khẳng định là nhiệm vụ cấp thiết trong
tiến trình phát triển của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, trước tốc độ
phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin, những yêu cầu về bảo đảm an
ninh thông tin trên không gian mạng đã được đặt ra. Ngày 12/6/2018, Việt
Nam đã ban hành Luật An ninh mạng, trong đó xác định hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia bao gồm: a) Hệ thống thông tin quân sự,
an ninh, ngoại giao, cơ yếu; b) Hệ thống thông tin lưu trữ, xử lý thông
tin thuộc bí mật nhà nước; c) Hệ thống thông tin phục vụ lưu giữ, bảo
quản hiện vật, tài liệu có giá trị đặc biệt quan trọng; d) Hệ thống
thông tin phục vụ bảo quản vật liệu, chất đặc biệt nguy hiểm đối với con
người, môi trường sinh thái; đ) Hệ thống thông tin phục vụ bảo quản,
chế tạo, quản lý cơ sở vật chất đặc biệt quan trọng khác liên quan đến
an ninh quốc gia; e) Hệ thống thông tin quan trọng phục vụ hoạt động của
cơ quan, tổ chức ở trung ương; g) Hệ thống thông tin quốc gia thuộc
lĩnh vực năng lượng, tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông vận
tải, tài nguyên và môi trường, hóa chất, y tế, văn hóa, báo chí; h) Hệ
thống điều khiển và giám sát tự động tại công trình quan trọng liên quan
đến an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia (Khoản 2,
Ðiều 10).
Trên thực tế, những năm gần đây, hệ thống thông tin ở Việt Nam luôn
được tập trung phát triển mạnh mẽ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
thông tin của xã hội, phục vụ đắc lực các hoạt động lãnh đạo, quản lý
của Ðảng và Nhà nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh cho đất nước. Việt Nam
đang đẩy mạnh các chương trình, chiến lược chuyển đổi số. Trên nền tảng
số quốc gia là một khối lượng dữ liệu khổng lồ và hết sức quan trọng
như thông tin cá nhân người dùng, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hệ thống tài liệu nội bộ của cơ quan Nhà nước...; góp phần to lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của
đất nước.
Tuy nhiên, thực tế chuyển đổi số cũng đặt ra nhiều
thách thức bởi lẽ khi toàn bộ hoạt động của con người được chuyển lên
môi trường mạng thì chỉ cần một sự cố an ninh thông tin nghiêm trọng có
thể làm cản trở chương trình chuyển đổi số của cả một ngành, một địa
phương hay một doanh nghiệp cũng như đe dọa gây ra hậu quả khó lường.
Ở
Việt Nam, trung bình mỗi người hoạt động trực tuyến khoảng 7-8 tiếng.
Thời gian này càng gia tăng thì nguy cơ mất an ninh thông tin mạng lại
càng cao hơn. Nhất là trong bối cảnh tình hình an ninh thông tin ở Việt
Nam đã và đang có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy
cơ đối với an ninh con người, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội.
Hiện nay ở Việt Nam, công tác bảo đảm an ninh thông tin dù đã được
chú trọng tuy nhiên có lúc, có nơi vẫn còn tình trạng chủ quan, chưa
quan tâm đúng mức, còn nhiều thiếu sót, sơ hở, rất dễ để các đối tượng
cơ hội lợi dụng gây nguy cơ mất an ninh thông tin, lộ, lọt bí mật nhà
nước. Một số cơ quan, đơn vị, ban, ngành nắm giữ hệ thống thông tin quan
trọng về an ninh quốc gia nhưng kỹ năng, ý thức bảo vệ bí mật, an ninh
thông tin của một số phòng, ban, cá nhân còn hạn chế. Cả nước hiện nay
có 3.078 hệ thống thông tin trong các cơ quan nhà nước, trong đó, mới
chỉ 1.846 (60%) hệ thống được xác định cấp độ an toàn, 201 (6,5%) hệ
thống thông tin đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn theo cấp độ. Chưa kể, sự
tụt hậu về công nghệ, sự phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, nhất là phần
mềm hệ thống, dịch vụ mạng xã hội… tại một số nơi cũng đáng báo động
nguy cơ mất chủ quyền nội dung số, tài nguyên thông tin của các tổ chức,
cá nhân, doanh nghiệp và của quốc gia.
Trong
khi đó, từ bên ngoài, các nhóm tin tặc, tổ chức tội phạm không ngừng
thực hiện các chiến dịch tấn công mạng tự phát, đơn lẻ và quy mô lớn
nhằm vào hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu của các quốc gia. Thực tế
này đang tiềm ẩn không ít nguy cơ đe dọa gây tê liệt, gián đoạn hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý kinh tế-xã hội của các cơ
quan Nhà nước. Các thế lực thù địch, phản động cũng tăng cường hoạt động
tình báo, gián điệp mạng, khủng bố mạng, kêu gọi tài trợ khủng bố, tội
phạm mạng, tán phát tin giả, tin xấu, độc hại, lợi dụng mạng xã hội để
xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng, pháp
luật của Nhà nước, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Ðảng nhằm tác động
chính trị nội bộ, can thiệp, hướng lái chính sách, pháp luật của Việt
Nam.
Theo thống kê của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an), giai đoạn 2010-2021, các thế lực
thù địch, phần tử xấu đã, đang sử dụng 8.784 web, blog có tên miền nước
ngoài; 381 web, blog có tên miền trong nước thường xuyên đăng tải thông
tin xấu, độc chống phá Ðảng, Nhà nước Việt Nam.
Các cơ quan chức
năng đã phát hiện 279 vụ sử dụng internet xâm phạm an ninh quốc gia,
đấu tranh với hơn 200 đối tượng; xử lý 140 đối tượng. Ðáng chú ý, trong
đó có 219 vụ kích động biểu tình trên không gian mạng; 138 hội, nhóm trá
hình hoạt động trên không gian mạng; 45.498 lượt cổng thông tin, trang
tin điện tử có tên miền ".vn" bị tấn công, trong đó có 2.113 lượt tấn
công các cổng thông tin, trang tin điện tử của cơ quan Ðảng, Nhà nước,
gây ra những hậu quả nghiêm trọng...
Bảo đảm an ninh thông tin trong quá trình chuyển đổi số không chỉ là
trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan chức năng mà còn là nghĩa vụ,
trách nhiệm của mỗi công dân vì đó cũng là cách để chúng ta tự bảo vệ
lợi ích của chính mình.
Ðể làm tốt nhiệm vụ này, thời gian tới,
các cơ quan chức năng cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, tuyên truyền,
phổ biến cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân các nguy cơ, yếu
tố đe dọa, gây mất an ninh thông tin; nâng cao ý thức cho mỗi tổ chức,
cá nhân trong sử dụng các dịch vụ thông tin, nhất là những dịch vụ do
nước ngoài cung cấp, có năng lực nắm bắt các thủ đoạn tấn công mạng và
cách thức xử lý như bị cài, gắn vào máy tính cá nhân, bị lấy tài khoản
và mật khẩu; bị đánh cắp dữ liệu cá nhân; bị tấn công bằng mã độc… Người
dùng cần nghiên cứu kỹ trước khi like và share các thông tin, bài viết,
đường link, nếu có nghi ngờ phải kiểm tra lộ, lọt thông tin cá nhân qua
Trung tâm xử lý tấn công mạng Việt Nam, tạo khả năng tự vệ, "miễn dịch"
trước thông tin giả, xấu, độc hại.
Nhà nước cần xây dựng kế
hoạch có tầm chiến lược về nội dung nhận diện các nguy cơ, thách thức
gây mất an ninh thông tin và trách nhiệm, nghĩa vụ trong bảo đảm an ninh
thông tin vào hệ thống giáo dục quốc dân để bảo đảm toàn dân đều am
hiểu, nắm bắt được yêu cầu bảo đảm an ninh thông tin thời kỳ chuyển đổi
số; tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo
đảm an ninh thông tin, tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm sự an toàn,
tin cậy trong quá trình chuyển đổi số, quản lý hoạt động của các tổ
chức, doanh nghiệp, cá nhân cung cấp dịch vụ thông tin xuyên biên giới
vào Việt Nam.../.
TS. MAI DIỆU ANH (nhandan.vn)