Văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền; về chủ nghĩa xã hội (CNXH), con đường đi lên CNXH ở nước ta; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng, đổi mới công tác giáo dục lý luận trong Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp”(1).
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, trong những năm qua, công tác tổ chức nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đã có nhiều kết quả. Tuy nhiên, đến nay công tác này vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn thách thức mới, tác động từ cả hai chiều thuận và nghịch xuất phát từ hai nhóm yếu tố trọng yếu: bối cảnh thế giới, trong nước và bản thân những yêu cầu mới của công tác lý luận.
1. Tác động của bối cảnh thế giới và trong nước
Những thách thức đối với công tác lý luận từ bên ngoài tác động vào Việt Nam không hề nhỏ. Thực tế những gì diễn biến trên thế giới trong mấy thập niên qua không giống như chúng ta đã xác định và mong muốn. Một mặt, chủ nghĩa tư bản tưởng rằng sẽ tất yếu nhanh chóng diệt vong thì nay nó vẫn chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Còn ở mặt khác, CNXH được sinh ra và phát triển dường như theo đúng lý luận của CNXH khoa học thì lại bị sụp đổ và tan rã ở ngay đầu nguồn là Liên Xô (cũ). Đã vậy, các nước theo hướng xã hội chủ nghĩa còn lại tuy tiếp tục đứng vững và phát triển nhưng chưa có những thành tố về thực tiễn làm lay động lòng người như trước.
Trong những năm tới, xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Các nước với chế độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhưng vẫn sẽ luôn có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng cũng đang diễn ra những tranh luận gay gắt. Tình hình thông tin về mọi mặt và ở mọi nơi trên thế giới, cả mặt thuận và mặt trái, đều có thể hấp thụ được qua nhiều cách, nhiều chiều trên nhiều phương diện thông tin. Việc nghe, nhìn cũng như suy nghĩ của mỗi người trong điều kiện mở cửa, hội nhập thay đổi khác hẳn những năm qua, khiến cho công tác lý luận và tổng kết thực tiễn ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Tình hình trong nước tuy có nhiều chuyển biến tốt, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, nhưng vẫn còn tồn đọng một số vấn đề cần quan tâm giải quyết. Đó là “kinh tế phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo CNH, HĐH còn chậm; các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ phân phối vẫn còn nhiều bất hợp lý. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường chưa được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”(2). Sự tác động đó có thể xem xét trên hai chiều:
Thứ nhất, tác động thuận.
Trên thế giới, xu thế đa trung tâm và dân chủ hóa đời sống quốc tế có chiều hướng gia tăng làm cho chúng ta có thể tự tin và kiên định đối với con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Những phức tạp trong tình hình chính trị thế giới, những yếu kém, khó khăn và khủng hoảng ngay tại các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, càng cho thấy những nhận định xác đáng, đúng đắn của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin. Khoa học, công nghệ, kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ cũng là điều kiện thuận lợi để công tác lý luận áp dụng công nghệ mới vào việc triển khai nghiên cứu thế giới.
Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới, trở thành tiêu điểm thu hút sự quan tâm, nghiên cứu và tổng kết những vấn đề lý luận.
Ở trong nước, qua gần 30 năm đổi mới, đã có những thay đổi nhanh chóng về lượng và tăng cường về chất. Chưa bao giờ tầm vóc và sức mạnh của dân tộc, của đất nước lại mạnh mẽ và rực rỡ như hiện nay. Thành quả và kinh nghiệm, bài học thành công, chưa thành công trong những năm đổi mới vừa qua đều là những tiền đề quý báu cho chúng ta. Tất cả những điều đó làm cho công tác lý luận và tổng kết thực tiễn có một “cốt vật chất” vững chắc khi triển khai các nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, tác động không thuận.
Tình trạng bất ổn trong đời sống chính trị thế giới và khu vực như xung đột dân tộc, tôn giáo, sắc tộc, ly khai, khủng bố, bạo loạn chính trị, can thiệp vũ trang, chiến tranh mạng... tác động thường xuyên đến tất cả các nước. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh...; các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp. Các biểu hiện thực tiễn đó làm cho việc nghiên cứu, phân tích lý luận rất khó đoán định và kết luận.
Trong khi đó, những cuộc đại tranh luận về thể chế chính trị thế giới, về các lý thuyết phát triển, về thời đại và thế giới đương đại, về tương lai của loài người vẫn diễn ra với các cách tiếp cận khác nhau và các quan điểm khác nhau. Cuộc đấu tranh tư tưởng về ý thức hệ như có người lầm tưởng là đã chấm dứt nhưng thực chất vẫn hết sức phức tạp thể hiện trên các khía cạnh khác nhau.
Ở trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng nêu ra từ các đại hội trước tới nay vẫn tồn tại. Nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế” và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến phức tạp. Những biểu hiện xa rời mục tiêu CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn tồn tại, phức tạp, xuất hiện những âm mưu hoạt động nhằm hình thành các tổ chức đối lập. Các thế lực thù địch vẫn tăng cường chống phá, thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân có mặt giảm sút. Tất cả những vấn đề đó gây ra nhiều khó khăn cho việc triển khai công tác lý luận và tổng kết thực tiễn.
2. Những điều kiện, đòi hỏi mới đối với công tác lý luận, tổng kết thực tiễn
Thứ nhất, công tác lý luận triển khai trong điều kiện khó khăn, phức tạp trên con đường cách mạng của nước ta. Con đường cách mạng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bước đi lên CNXH ở nước ta là chưa có tiền lệ. Trên con đường đó, chúng ta gặp không ít khó khăn, lực cản. Có những khó khăn do chính bản thân chúng ta không lường hết, khó khăn nội tại do chủ quan duy ý chí hoặc do bảo thủ trì trệ dẫn tới đình đốn, thậm chí vấp ngã. Sự kiện ở Liên Xô trước đây và Đông Âu - những nơi mà CNXH tưởng như rất vững chắc, nhưng lại bị tan rã một cách nhanh chóng, đã cho ta bài học sâu sắc cả về tính phức tạp của thế giới đương đại và những trắc trở, khó khăn của con đường đi tới tương lai của loài người. Vấn đề đặt ra là vận mệnh của CNXH sẽ phụ thuộc vào chính việc nhìn nhận và khắc phục những vướng mắc bên trong của chế độ xã hội XHCN, nhất là khi CNXH chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Đó là những vấn đề nảy sinh từ tính phức tạp của thực tiễn mà ta chưa lường hết và có trường hợp từ sai lầm về nhận thức dẫn tới sai lầm về hành động; từ sự thiếu hiểu biết mà làm sai, làm ẩu; sự thiếu nhạy cảm nên chậm chạp để mất thời cơ; sự vi phạm nguyên tắc dẫn tới sự chệch hướng.
Thực tiễn quá trình cách mạng của chúng ta hiện nay cũng chứa đựng những vấn đề không đơn giản. Phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế là những nhiệm vụ tất yếu mà chúng ta đang tiến hành. Nhưng ai cũng biết, mặc dù chúng ta luôn giữ định hướng XHCN, nhưng phát triển kinh tế thị trường càng mạnh thì tính tự phát của khuynh hướng tư bản chủ nghĩa cũng sẽ tăng lên. Chúng ta lại đang ở thời kỳ quá độ, trong đó nền kinh tế và cả xã hội cũng có những vấn đề quá độ đan xen nhau rất khó rạch ròi. Quá trình mở cửa hội nhập, chủ động làm ăn với các nước tư bản chủ nghĩa lại sử dụng những giải pháp và cách thức phát triển của chủ nghĩa tư bản để xây dựng CNXH, đặt ra nhiều thách thức đối với công tác lý luận và đặc biệt là công tác đấu tranh về lý luận để bảo vệ những nguyên lý và quan điểm, định hướng của chúng ta.
Thứ hai, phải xuất phát từ tư duy khoa học và sáng tạo trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
Chúng ta đều thấy rằng: Một mặt, lý thuyết về CNXH và xã hội XHCN được hình thành một cách khoa học, có khảo sát, phân tích thấu đáo trên cơ sở vận dụng những quy luật khách quan. Nhưng mặt khác, đôi khi chúng ta không chú ý hoặc vô tình bỏ qua một vấn đề quan trọng là những luận thuyết về CNXH được xác lập dựa vào những phương pháp trừu tượng rất cao. Phải tìm tòi và gạt bỏ những vấn đề, những yếu tố đặc thù, hoặc không cơ bản để đi sâu vào lý giải những vấn đề cốt lõi. Lý thuyết nguyên bản cội nguồn đó khi được áp dụng vào những tình huống cụ thể, lẽ ra phải tính tới sự gắn kết những điều kiện bên ngoài với bên trong và phải được soi rọi từ thực tế thì sự vận dụng nhiều khi biệt lập, không cân nhắc đến khía cạnh đó nên dễ bị khiên cưỡng và thường gặp những vướng mắc khó có thể tháo gỡ.
Tính trừu tượng cao của CNXH khoa học chính là những nguyên lý chung nhất, mang tính phổ biến nhất có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi nước. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng để xây dựng CNXH, không thể không tính đến, thậm chí phải hết sức tính đến những điều kiện đặc thù. Trên cơ sở nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó cùng với việc kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại để đưa ra những tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận và cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi, trở thành nền tảng tư tưởng bền vững của dân tộc và có sức lan tỏa ra thế giới.
Thứ ba, trong công tác lý luận, không được phiến diện, tuyệt đối hóa một chiều và công thức hóa.
Phiến diện và tuyệt đối hóa sẽ dẫn tới làm mất đi tính khoa học của lý luận và tính phong phú của thực tế, làm cho lý luận bị ngưng đọng và không đủ uyển chuyển để tìm ra những luận cứ đấu tranh. Như khi luận bàn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có lúc đánh giá quá cao tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất; lúc khác thì chỉ để ý đến vấn đề lợi ích và phát huy các yếu tố của lực lượng sản xuất nên coi nhẹ, thậm chí quên mất việc quan hệ sản xuất phù hợp một cách chủ động và tích cực đối với lực lượng sản xuất. Vấn đề sở hữu cũng vậy, trước đây trong lý thuyết chúng ta chú trọng hết sức đến hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, coi đó là điều tuyệt đối đúng, là hình thức cơ bản đặc trưng của CNXH. Cho đến nay, khi xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN thì xuất hiện những nhận thức lửng lơ, phó mặc, ít chú trọng tới việc củng cố, hoàn thiện các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo, nền tảng là kinh tế nhà nước và hợp tác xã.
Vấn đề công thức hóa cũng vậy. Khi nói về kết cấu và bản chất của CNXH, đôi khi chúng ta mô tả nó một cách công thức đơn giản, hời hợt, sơ lược, coi như không có mâu thuẫn; không nhìn thấy hết và không quan tâm hết đến các hệ thống lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội. Điều đó đã vô tình hạ thấp vị trí, vai trò của hệ tư tưởng XHCN và trên thực tế sẽ tạo ra những cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ tư, phải xuất phát từ thực tiễn.
Nếu trong công tác lý luận mà cứ đi theo một chiều hướng cứng nhắc, theo công thức định sẵn, không chú ý đến các vấn đề mới nảy sinh trong kinh tế, không để tâm đến tâm trạng xã hội và tình cảm của nhân dân thì không thể đủ sức thuyết phục. Một khi công tác tư tưởng, lý luận cứ theo một khuôn khổ định sẵn, không đề cập đến những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh vào hoạt động của mình thì nhất định các tư tưởng lý luận xa lạ, sai lệch sẽ xen vào. Trong những dạng thức tư tưởng dễ xâm nhập vào quần chúng, phải kể đến ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Ý thức tiểu tư sản thường được “tái sinh” từ sự chủ quan của công tác tư tưởng nói chung và công tác đấu tranh lý luận nói riêng; từ những vi phạm nguyên tắc XHCN trong sản xuất, phân phối và trong cả sinh hoạt đời sống đã động chạm đến lợi ích vật chất, quyền lợi của quần chúng lao động. Trên từng bước đường cách mạng gặp vô vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương chứng minh một cách rõ ràng cho quần chúng hiểu được những điều cụ thể, từng công việc cần làm và sẽ làm được nếu tất cả mọi người cùng giác ngộ, cùng quyết tâm, đồng lòng chung sức.
Thứ năm, công tác lý luận phải hướng vào chủ đích là củng cố niềm tin.
Kết quả cũng như thước đo chất lượng của công tác lý luận và tổng kết thực tiễn chính là củng cố niềm tin, sao cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân tin vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng. Triển vọng phát triển của đất nước phụ thuộc đáng kể vào tư tưởng và nhận thức của con người. Khi tư tưởng đã thông, thống nhất một cách nghĩ sẽ biến ý chí thành hành động, làm cho triệu người đồng lòng chung sức, tạo thành lực lượng vật chất to lớn thúc đẩy xã hội tiến lên. Yếu tố cối lõi đưa tới thống nhất tư tưởng và hành động là niềm tin. Niềm tin trong mỗi con người là sự chắt lọc từ nhận thức và nằm trong chiều sâu nhận thức, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với việc định hướng tư tưởng và định hướng hành động. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân là keo gắn trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, tạo thành động lực to lớn giúp chúng ta đi đến thắng lợi.
Để xác lập và củng cố niềm tin, điều cần thiết nhất là phải nâng cao trình độ giác ngộ, trình độ hiểu biết cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tiếp tục đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, chỉ có tình cảm là không đủ, mà phải là tình cảm cách mạng dựa trên cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Có như vậy mới định hướng đúng khi gặp những điều kiện và biến cố phức tạp trong một thế giới đầy xáo động, bất trắc khôn lường. Và, có như vậy mới đủ kiên định trước mọi thử thách của thời cuộc.
Thứ sáu, phải coi nghiên cứu lý luận là một khoa học.
Không chỉ ở nước ta, tại nhiều nước theo con đường CNXH, nhiều khi công tác lý luận được coi là làm chính trị. Nhiều lúc, nhiều nơi chúng ta cũng mắc căn bệnh như vậy. Đồng nhất công tác lý luận với công tác chính trị sẽ làm mất tính khách quan khoa học và không nhận rõ, cũng như không chịu tiếp thu cái mới. Việc đồng nhất như vậy làm cho nghiên cứu lý luận chỉ là tìm cách minh họa các nghị quyết có sẵn, thiếu đột phá sáng tạo; làm mất đi tính sinh động vốn có của công tác lý luận; làm cho lý luận thiếu hơi thở của cuộc sống, trở nên cằn cỗi, lạc hậu, không có tác dụng đối với đòi hỏi của đời sống xã hội.
Để khắc phục tình trạng đó, chúng ta cần trở lại với những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn rộng mở, như một cơ thể sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với thời cuộc, như cây xanh gắn bó với khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải có sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mácxít. Nguyên lý mácxít chỉ có thể bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay./.
______________________________
GS. TS. Vũ Văn Hiền, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.57, 17-18.