(TG) - Một số bạn bè người Nhật của tôi hay dùng từ “Hữu
Duyên - En ga aru” để nói về tình thân giữa những người
dân hai nước. Họ còn cho rằng Việt Nam và Nhật
Bản là “đồng minh tự nhiên”.
Tự nhiên, có nghĩa là sự
gắn bó với nhau không
chỉ vì lợi ích, mà một
phần rất quan trọng lại bắt
nguồn từ sự tương đồng về
văn hóa, truyền thống, chuẩn
mực đạo đức, đặc điểm tâm lý,
cảm xúc, quan niệm về giá trị…
Nhà yêu nước Phan Bội Châu
cũng đã từng đúc kết mối tương
đồng giữa Việt Nam và Nhật
Bản trong 6 chữ “đồng văn, đồng
chủng, đồng châu”.
Nhân dịp 45 năm thiết lập
quan hệ ngoại giao chính thức
giữa hai nước Việt Nam - Nhật
Bản, tôi muốn chia sẻ trong bài
viết này những trải nghiệm thực
tế và suy nghĩ của mình đối với
con người Nhật và tình hữu nghị
giữa hai đất nước.
Năm 2018 này đối với tôi
cũng rất đáng nhớ. Đó là, đúng
30 năm trước (1988), tôi lần đầu
tiên đặt chân lên mảnh đất của
xứ hoa anh đào để làm nghiên
cứu sinh. Đây là sự kiện có tính
bước ngoặt trong sự nghiệp
giảng dạy và nghiên cứu của tôi.
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VỀ VĂN
HÓA - “ĐỒNG VĂN”GIỮA
CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA
Một trong bài học đầu tiên về
văn hóa Nhật Bản là câu nói của
một giáo sư của Trường Ngoại
ngữ Osaka, rằng đất nước chúng
tôi là nơi tận cùng, không thể đi
xa hơn nữa. Mọi thứ, cả những
cái cao thượng, tử tế đến cái
thấp hèn, xấu xa đều buộc phải
dừng lại nơi đây, chung sống
tại quốc đảo này.
Quả thật, trải qua lịch sử
hàng ngàn năm, dân tộc Nhật
đã cùng tồn tại trong hoàn cảnh
vừa chống chọi với tai biến thiên
nhiên vừa phải đấu tranh, sắp
đặt xã hội để mà cùng tồn tại.
Cũng vì thế, người Nhật rất coi
trọng chữ HÒA, đến mức từ này
còn để gọi những sản phẩm văn
hóa, tinh thần và vật chất. Ví
dụ, “Hòa thực” là món ăn Nhật,
ăn kiểu Nhật; hoặc “Hòa ngưu”
là thịt bò Nhật, “Hòa phong” là
phong cách Nhật…
Trà đạo:
Triết lý của Trà đạo,
một nét văn hóa đặc trưng lâu
đời của Nhật Bản, được kết tinh
trong 4 chữ, trong đó chữ Hòa
đứng trước nhất: Hòa - Kính -
Thanh - Tịch.
Hòa tức là sự hài hòa, hòa
hợp, giao hòa giữa người mời
trà, người uống trà và không
gian nơi diễn ra nghi lễ trà đạo.
Kính là lòng kính trọng, sự
tôn kính, sự tri ân cuộc sống
trà nhân với tổ tiên, trời đất và
con người. Khi lòng tôn kính với
vạn vật đạt tới sự không phân
biệt thì nhân tâm trở nên thanh
thản, yên tĩnh.
Thanh là sự thanh khiết,
thánh thiện, trong sáng, khiêm
nhường trong cái tâm, cái trí của
mỗi người.
Tịch là khi lòng thanh thản,
yên tĩnh hoàn toàn thì toàn bộ
thế giới trở nên tịch lặng. Cũng chính lúc ấy, người ta sẽ đạt đến
một trạng thái cao về mặt tinh
thần và tâm linh, họ sẽ tìm thấy
được sự an lạc và hạnh phúc
thực sự.
Bốn chữ Hòa - Kính - Thanh
- Tịch cũng được xem như một
thước đo để mỗi người tham
gia nghi lễ có thể tự nhận biết
mình đang ở đâu trên con
đường Trà Đạo.
Văn hóa uống trà của người
Việt cũng có lịch sử từ lâu đời.
Ngày xưa trà chỉ được dùng
trong lớp quyền qúy cao sang.
Tác phong mời trà một cách
cung kính, nâng tách trà bằng
hai tay tỏ ra rất thanh tao lịch
lãm. Từ xưa, những tiền nhân
sành sỏi nghệ thuật uống trà
đã từng nói “nhất thủy - nhì trà
- tam bôi - tứ bình - ngũ quần
anh” tức là nhất là nước, nhì là
trà, ba là chén, bốn là bình và
năm là bạn trà. Điều này cũng
phần nào nói lên được phong
cách của trà Việt và trà Nhật có
nhiều điểm tương đồng.
Nghệ thuật cắm hoa tươi
- Ikebana:
Ikebana hay là kado
(Hoa đạo), có nguồn gốc từ thế
kỷ 15, với nhiều phong cách
và trường phái. Hoa tươi, cành
cây, lá, cỏ và bình hoa được sử
dụng là sự kết hợp hài hòa giữa
màu sắc với hình dạng tự nhiên,
gửi gắm ý nghĩa mà người cắm
muốn được ẩn dấu một cách
khéo léo. Ikebana là nghệ thuật
diễn tả những sắc thái tình cảm
qua các cung bậc màu sắc của
các loài hoa. Ikebana cũng được
xem là một nghệ thuật giống
như hội họa hay điêu khắc với
lịch sử lâu đời.
Truyền thống chơi hoa
của Việt Nam cũng xuất hiện
rất lâu và trở thành một nghệ
thuật đặc sắc. Hà Nội xưa là đất
hoa, những tên làng như Nghi
Tàm, Yên Phụ, Hồ Tây đều gắn
bó với nghề trồng hoa hàng thế
kỷ trước đây. Ngoài ra, những
tên phố, tên đường như Hòe
Nhai, Liễu Giai, Bạch Mai, Hồng
Mai, Hoàng Mai… đều mang tên
những loài hoa và cây đẹp.
Nhã nhạc cung đình Huế và
Nhã nhạc cung đình Nhật Bản
(Gagaku) có nét tương giao.
Cuối
năm 2007, trong chương trình
chuyến thăm Nhật Bản của Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết có
một hoạt động rất độc đáo. Đó
là đội nhạc đến từ Huế đã trình
diễn nhã nhạc phục vụ Nhà vua
và Hoàng hậu Nhật Bản. Hai vị
đã rất chăm chú thưởng thức
và trò truyện với các nhạc công.
Có mặt trong buổi trình bày nhã
nhạc cung đình Huế hôm ấy, tôi
chứng kiến cách thưởng thức
âm nhạc rất tinh tế của Nhà vua
Akihito. Mười năm sau, trong
chuyến thăm Việt Nam tháng
3 năm 2017, Nhà vua và Hoàng
hậu đã thăm TP. Huế và thưởng
thức Nhã nhạc cung đình Huế.
MỘT SỐ TRIẾT LÝ RẤT ĐẶC
BIỆT CỦA NGƯỜI NHẬT
Triết lý chế tác sản phẩm -
Monozukuri
Cách đây 10 năm, nhân dịp
kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại
giao Việt Nam - Nhật Bản, tôi
được nghe ông Fujio Cho, Chủ
tịch Tập đoàn Toyota thuyết
trình về một triết lý rất thú vị
- triết lý hay văn hóa chế tác.
Tiếng Nhật là monozukuri.
Khái niệm này hình thành
2 chữ được viết là 物 作 り, hay là
も の づ く り. Được dịch theo
nghĩa đen, có nghĩa là chế tác
(zukuri) ra sản phẩm (mono).
Monozukuri còn hơn là chế
tác ra sản phẩm. Nó là một suy
nghĩ, một tinh thần tự hào, một
triết lý về danh dự của người
sáng tạo, một đạo đức làm việc
của người Nhật Bản hướng tới sự hoàn hảo. Bản thân từ này
được coi là một từ nguyên bản
tiếng Nhật. Trước đây, công việc
nhà máy ở Nhật Bản thường
không được coi là công việc
được mong đợi mà được coi
là công việc 3 K, tức là: kiken
(危 険) - nguy hiểm), kitsui
(き つ い): khó nhọc), và kitanai
(汚 い): bẩn. Từ năm 1999,
Chính phủ Nhật Bản ban hành
một đạo luật về Chương trình
khuyến khích Monozukuri.
Điều này cải thiện đáng kể hình
ảnh của công việc trong nhà
máy để mang lại giá trị lịch sử
của nghề thủ công và công nghệ
sản xuất hiện đại. Theo tôi hiểu,
monozukuri là sự phát triển của
tinh thần “kỹ Âu hồn Nhật” đã
có từ thời Minh Trị (1868).
Triết lý của lòng mến khách
- Omotenashi
Omotenash là triết lý thể
hiện lòng mến khách, làm cho
người khách ngạc nhiên bởi sự
chu đáo đến từng chi tiết, tinh
tế và chân thành đến mức người
khách ngạc nhiên, không ngờ
tới để rồi qua đó có những trải
nghiệm đáng nhớ nhất có thể.
Người ta kể lại rằng, khái niệm
về omotenashi được xuất hiện
trong lễ trà đạo Nhật Bản. Gốc
rễ của từ omotenashi là cụm từ
"omote-ura nashi" theo nghĩa
đen có nghĩa là "mặt trước, mặt
sau không có gì dấu diếm cả”.
Mọi thứ đều phải chân thành,
cởi mở, hài hòa.
Một trong những điểm
khác biệt chính giữa "dịch vụ"
và lòng hiếu khách Nhật Bản
(omotenashi) là dịch vụ phương
Tây thường được thực hiện với
hy vọng khách hàng sẽ thưởng
tiền cho một sản phẩm hoặc dịch
vụ bổ sung, trong khi omotenashi
được thực hiện mà không mong
đợi bất kỳ điều gì. Không giống
như trong văn hóa phương Tây,
khách không mất thêm chi phí
cho omotenashi. Omotenashi
thường xuyên kín đáo phục vụ
khách hàng và về cơ bản không
bao giờ nên cố ý nhắc nhở khách
hàng về sự hiếu khách.
Lời cảm ơn ghi trên bia mộ
Tháng 10 năm 2011, với
cương vị là Thứ trưởng Bộ Khoa
học - Công nghệ, tôi có chuyến
công tác đến Nhật Bản. Noi
theo tấm gương nhà yêu nước
Phan Bội Châu thăm mộ và xây
bia tưởng nhờ ân nhân là bác
sỹ Asaba Sakitaro, tôi đã tranh
thủ đến thăm gia đình và viếng
mộ Giáo sư Wadatsumi - người
hướng dẫn khoa học của tôi
thời kỳ tôi làm nghiên cứu sinh
tại Osaka. Ông mất đầu năm ấy.
Rất ngạc nhiên là nắm hương tôi
thắp trên mộ giáo sư bỗng cháy
rừng rực. Lúc ấy, bà vợ giáo sư
nói rằng, vậy là giáo sư mừng lắm
khi biết anh Khải đến thăm. Ngạc
nhiên hơn nữa, tôi thấy trên bia
mộ có ghi hai từ Cảm ơn (Arigato).
Bà vợ của giáo sư giải thích rằng
chính giáo sư đã tự thiết kế mộ
cho mình. Ngụ ý của ông là khi
còn sống ở trên đời đã có biết bao
ân tình, nên khi ra đi cũng phải
có lời cảm ơn. Lời cảm ơn cũng
xin dành cho tất cả những ai đã
đến thăm viếng nơi ông an nghỉ.
Thật là trọn vẹn. Ngay cả lúc đã
ra đi thầy vẫn cho tôi những lời
răn dạy không thể nào quên.
Lời cảm ơn của Ngài Bộ
trưởng Quốc phòng Nhật Bản,
ngài Onodera
Tôi cũng nhớ, cách đây 5
năm, tại lễ kỷ niệm 40 năm quan
hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật
Bản tổ chức tại khách sạn Melia,
Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nhật Bản, ngài Onodera khi phát
biểu đã nhắc tới một sự kiện lịch
sử. Đó là, năm 1288, quân Nguyên
Mông xâm lược Việt Nam lần thứ
3. Theo mưu đồ đã định sẵn là
sau khi chiếm được Việt Nam sẽ
thôn tính Nhật Bản. Vì thảm bại
tại Việt Nam nên Nguyên Mông
đã phải từ bỏ ý đồ xâm lược Nhật
Bản. Bộ trưởng Onodera đã cảm
ơn Việt Nam đã giúp Nhật Bản
tránh được một cuộc xâm lăng
725 năm trước.
Lời cảm ơn từ Đại sứ quán
Nhật Bản tại Hà Nội
Ngày 11-3-2011, thảm họa
động đất, sóng thần đã diễn ra ở
miền Đông Bắc nước Nhật. Ngay
lập tức, phong trào quyên góp
ủng hộ các nạn nhân Nhật Bản
đã diễn ra rộng lớn chưa từng có
trên khắp các địa phương Việt
Nam.
Người Việt ta có câu “qua
cơn họa nạn càng tỏ tận lòng
nhau”. Còn người Nhật cũng có
câu “nắng mưa cùng thuyền”.
Khi đó tôi là chủ tịch Hội Hữu
nghị Việt Nam - Nhật Bản, chúng
tôi được giao nhiệm vụ chủ trì
phát động đợt quyên góp. Trong
thời gian ngắn, phong trào đã
quyên góp được hơn 120 tỷ
đồng. Số tiền ấy không lớn so với
sự mất mát của người dân vùng
bị nạn nhưng đã có rất nhiều
câu chuyện cảm động về nghĩa
cử của những học sinh nhỏ tuổi
nhường phần ăn sáng, hay các
bà nội trợ bớt đi một phần chi
tiêu để dành ra khoản đóng góp
cho các bạn Nhật Bản… Điều đó
thể hiện đồng bào ta luôn biết tri
ân bè bạn. Chắc nhiều người sẽ
còn nhớ mãi tấm biển lớn treo
trên tường của Đại sứ quan Nhật
Bản với lời cảm ơn chân thành
từ Nhân dân Nhật Bản.
TSKH. Nghiêm Vũ Khải
Nguyên Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản
Người nhận Huân chương Mặt trời mọc năm 2014