Thứ Sáu, 22/11/2024
Lý Luận
Thứ Ba, 3/5/2022 19:0'(GMT+7)

Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu ở Việt Nam (tiếp theo và hết)

Chế độ sở hữu gì cũng phải hướng vào mục đích tạo nguồn mưu sinh cho người dân và ổn định xã hội. Không thể hy sinh lợi ích của số đông người chỉ để có một chế độ sở hữu như các nước khác (Trong ảnh: Thu hoạch lúa trên cánh đồng mẫu lớn ở đồng bằng sông Cửu Long) _Ảnh: Tư liệu

Chế độ sở hữu gì cũng phải hướng vào mục đích tạo nguồn mưu sinh cho người dân và ổn định xã hội. Không thể hy sinh lợi ích của số đông người chỉ để có một chế độ sở hữu như các nước khác (Trong ảnh: Thu hoạch lúa trên cánh đồng mẫu lớn ở đồng bằng sông Cửu Long) _Ảnh: Tư liệu

Nhiều năm nay, trên các diễn đàn góp ý sửa đổi Luật Đất đai, xuất hiện một số ý kiến cho rằng chúng ta nên thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai hoặc thừa nhận chế độ đa sở hữu giống như nhiều nước khác. Không chỉ vậy, một số thế lực từ bên ngoài công kích, cho rằng, sở hữu toàn dân là không minh bạch, mù mờ, không xác định được ai là chủ sở hữu trong các quan hệ đất đai, nhất là khi xảy ra tranh chấp. 

SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI – TẤT YẾU LỊCH SỬ TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ VIỆT NAM

Luận giải rõ về điều này, có thể thấy rằng, việc sở hữu tư nhân đất đai trong điều kiện nước ta hiện nay sẽ dẫn tới nguy cơ dẫn đến một số hệ lụy khó lường.

Một là, trong điều kiện nước ta đang thực hiện quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa, việc thiết lập chế độ sở hữu tư nhân về đất đai là một yếu tố cản trở đầu tư cho phát triển KT-XH. Quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa đòi hỏi chuyển một diện tích đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp. Sở hữu tư nhân đất đai sẽ đặt nhà đầu tư vào chỗ phải thỏa thuận với quá nhiều người dân, chỉ một người không đồng ý với phương án chung là kế hoạch đầu tư khó triển khai thực hiện. Việc người dân ra giá đến 1 tỷ đồng cho 1m2 đất ở Trung tâm Hà Nội đã là minh chứng đầy thuyết phục cho lo ngại này. Mặt khác, những người tư hữu riêng lẻ cũng khó có điều kiện thỏa thuận với nhà đầu tư theo giá có lợi cho họ. Kết quả là sở hữu tư nhân đất đai vừa cản trở quá trình phát triển KT-XH của đất nước, vừa không có cơ chế bảo vệ được lợi ích của nhà đầu tư và của chính người dân.

Hai là, sở hữu tư nhân đất đai sẽ dẫn đến kết quả không mong muốn là nảy sinh tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội nảy sinh.

Điều này có thấy từ các minh chứng trong lịch sử. Với sở hữu tư nhân đất đai, người sở hữu đất có quyền đối xử với đất như đối với tài sản riêng, có quyền mua, bán, chuyển nhượng, thậm chí bỏ hoang không sử dụng, cũng như chuyển đổi mục đích sử dụng. Không ai có quyền thu hồi, sử dụng đất của người khác nếu không được chủ đất cho phép. Do đất là tài sản riêng nên người dân có quyền định đoạt nó như hàng hóa trên thị trường bất động sản. Lợi dụng khó khăn hoặc kém hiểu biết của nông dân, một bộ phận người có tiền (từ nhiều nguồn khác nhau mà chúng ta không kiểm soát được) có thể thu gom đất đai để trở thành địa chủ. Điều này đã diễn ra trong cải cách ruộng đất của chế độ Mỹ - Diệm những năm 60 của thế kỷ XX ở miền Nam nước ta.

Ngay cả ở giai đoạn hiện nay, nếu duy trì phổ biến sở hữu tư nhân đất đai cũng sẽ dẫn đến hiện trạng người có nhiều tiền thu gom đất đai và chỉ sử dụng đất vì mục đích cá nhân như làm trang trại để nghỉ ngơi, giải trí, cho thuê nhằm kiếm lời,… Đây sẽ là nguyên nhân dẫn đến một bộ phận nông dân đói nghèo vì không có đất, không còn kế sinh nhai, khi đa phần đất nông nghiệp được chuyển giao theo con đường sở hữu tư nhân cho một số người?

Ba là, trong chế độ sở hữu tư nhân đất đai, đành rằng nhà nước có thể giữ lại quyền quy hoạch mục đích sử dụng từng thửa đất và ràng buộc chủ đất thực hiện một số quy định vì môi trường sống chung, nhưng không ai có quyền ngăn cản người chủ đất sử dụng đất theo ý họ, vì đất là tài sản riêng của họ. Lý do này còn khiến đất đai có xu hướng được sử dụng không hiệu quả, không vì mục đích sinh tồn của đa số dân cư.

Nhiều người “cổ vũ” việc sở hữu tư nhân về đất đai, coi đó là biện pháp sử dụng đất hiệu quả đã quên đi mục tiêu xóa bỏ tình trạng dùng quyền sở hữu tư liệu sản xuất (trong đó có đất đai) để nô dịch người khác. Hơn nữa, như C.Mác đã từng chỉ ra, quyền tư hữu có tính độc quyền về đất đai là vật cản của tiến bộ kinh tế, kỹ thuật trong nông nghiệp. Thực tế phân hóa giàu nghèo trong các tư bản phát triển hiện nay cũng chứng minh cho tính đúng đắn của kết luận này.

Dưới chiêu bài ủng hộ hiệu quả sử dụng đất (hiệu quả sử dụng đất theo nghĩa đem lại thu nhập bằng tiền cho người sở hữu đất), một số người lý giải rằng, sở hữu toàn dân về đất đai dẫn đến vô chủ và vì vô chủ nên đất được sử dụng không hiệu quả. Họ cũng lý giải rằng, Luật đất đai, vì dựa trên lập trường sở hữu toàn dân nên không chính danh, không xác lập được quan hệ dân sự trong các giao dịch về đất đai nên dẫn đến các giao dịch đất đai của nước ta không giống với thông lệ quốc tế, gây tranh chấp khi có yếu tố nước ngoài. Ở đây, chưa cần bàn đến việc có cho người nước ngoài tự do sở hữu đất đai, nhất là đất sản xuất hay không, nhưng người nước ngoài trên đất Việt Nam phải tuân thủ luật pháp Việt Nam, có lẽ cũng là một thông lệ. Hơn nữa, các nước trên thế giới không có một luật đất đai giống nhau.

Nhóm ủng hộ sở hữu tư nhân về đất đai cũng lý sự rằng, Nhà nước ta không đủ năng lực quản lý đất đai. Họ cố tình không hiểu rằng, chính vấn đề cần bàn là cần nỗ lực xây dựng một Nhà nước có khả năng quản lý đất đai tốt hơn. Họ “khăng khăng” cho rằng, yếu kém của Nhà nước trong quản lý đất đai với tư cách đại diện cho sở hữu toàn dân là đương nhiên. Một luận giải khiên cưỡng, bởi Nếu Nhà nước không thể thay mặt xã hội quản lý tài sản chung thì đừng nói đến quốc gia XHCN, mà quốc gia ổn định cũng không có.

Nhóm quan điểm ủng hộ đa sở hữu đất đai cho rằng, đất ở, đất sản xuất gắn bó với người dân lâu dài, là tài sản của họ nên áp dụng chế độ sở hữu tư nhân để khuyến khích bảo tồn, đầu tư và sử dụng hiệu quả theo nguyên tắc thị trường (nghĩa là lĩnh vực nào giá đất cao thì chuyển đất vào đó sử dụng) và hạn chế sự lạm dụng của cơ quan nhà nước trong thu hồi, giao đất. Tuy nhiên, họ không tính đến sự phân hóa giàu nghèo, vì đất ở và đất sản xuất chiếm hầu hết diện tích đất tự nhiên của quốc gia và nó cũng là đối tượng gây tranh chấp nhiều nhất. Hơn nữa, một đất nước, muốn có ổn định căn bản phải đảm bảo an ninh lương thực, phải sử dụng tổng quỹ đất theo quy hoạch chung hiệu quả. Khi đó, đất chỉ có thể giao dịch trong khuôn khổ mục đích sử dụng đất theo quy hoạch. Nói cách khác, do đất đai là một hàng hóa đặc biệt, quyền của chủ sở hữu đất bị giới hạn nhiều mặt, nên thị trường đất đai không thể điều tiết việc phân bổ đất đai cho các lĩnh vực một cách hiệu quả. Đó là chưa nói đến những khuyết tật nói chung của thị trường làm cho nó không hoàn hảo như mong ước của những người ủng hộ thị trường tự do.

Những người ủng hộ chế độ đa sở hữu đất đai cho rằng, các vùng đất sử dụng chung của một cộng đồng dân cư nào đó theo truyền thống, theo nhu cầu có tính địa phương nên để ở chế độ sở hữu cộng đồng (tức sở hữu tập thể). Đúng là trong quá khứ đã có những cộng đồng dân cư bảo vệ rừng, sông, hồ rất hiệu quả nhờ vào các hương ước được thừa nhận tự nguyện. Nhưng hiện nay, những tín điều tôn giáo, những ý nguyện của nhóm dân cư không đủ sức ngăn cản con người chiến thắng lòng tham, nhất là với quyền cư trú tự do và giao lưu quốc tế mở rộng, những kẻ xấu có thể lợi dụng sở hữu chung để chiếm đoạt ruộng đất và đem chuyển nhượng khiến các vụ tranh chấp đất đai trở nên rất phức tạp. Những người theo quan điểm này không tin vào một tổ chức nhà nước hùng mạnh có luật pháp, tòa án, lực lượng vũ trang ủng hộ trong xử lý quan hệ đất đai, lại đi tin vào sức mạnh của một cộng đồng dựa trên niềm tin tinh thần. Vấn đề không phải là không có những thửa đất dùng chung, mà ở chỗ họ cho rằng cần phải đa dạng hóa sở hữu đất đai. Trong khuôn khổ của sở hữu toàn dân chúng ta vẫn có các thửa đất dùng chung. Vấn đề là nên giao cho ai là đại diện pháp lý quản lý đất đai dùng chung với mục đích cụ thể đã được mọi người thừa nhận. Giải quyết vấn đề này trong chế độ đa sở hữu không dễ hơn khi so với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

Khu đô thị mới Thủ Thiêm thuộc Thành phố Thủ Đức nhìn từ trên cao. (Ảnh: Internet)

Khu đô thị mới Thủ Thiêm thuộc Thành phố Thủ Đức nhìn từ trên cao. (Ảnh: Internet)

SỰ PHÙ HỢP CỦA CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỤ THỂ

Quan điểm ủng hộ sở hữu toàn dân về đất đai dựa trên những căn cứ lịch sử khách quan sau:

Thứ nhất, xuất phát từ lập trường “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của quốc gia là đất đai. Đất đai là thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu dài của cả dân tộc, không thể để cho một số người nào đó may mắn trên thị trường có quyền độc chiếm sở hữu. Đất đai của quốc gia, dân tộc phải thuộc sở hữu chung của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của nhân dân. Nhiều diện tích đất đai phải được quy định trong luật là để sử dụng chung như đất làm đường, công viên, bờ biển tập kết của tàu, thuyền ngư dân đánh cá, hồ nước, dòng chảy của sông,… Các cơ quan giám sát tuân thủ pháp luật phải có đủ sức mạnh để không cho phép ai lấn chiếm, sử dụng những diện tích dùng chung một cách tùy tiện.

Ở đây, dùng chung cũng có nghĩa là không phải của cơ quan nhà nước để các cơ quan này có quyền giao hoặc chia cho ai tùy thích. Việc quyết định một phần diện tích đất đang dùng chung được chuyển sang đất dùng tư nhân phải hỏi ý kiến toàn dân (thông qua trưng cầu dân ý) hoặc giao quyền cho cơ quan nhà nước (Quốc hội) quyết định và giám sát, với những ràng buộc điều kiện chặt chẽ để tránh việc quyết định tùy tiện của các quan chức nhà nước. Những phần đất sử dụng tư nhân muốn chuyển thành đất dùng chung cũng phải được dân chúng ủng hộ và phải thoả thuận bình đẳng với người đang sử dụng đất.

Thứ hai, sở hữu toàn dân tạo điều kiện để những người lao động có điều kiện tiếp cận đất đai tự do. Với sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhiều người không còn tin vào CNXH và thậm chí họ còn cho rằng, Việt Nam nên bỏ “định hướng XHCN” trong mô hình kinh tế thị trường định hướngXHCN. Song, bản chất XHCN không bị cố định vào mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, càng không bị trói buộc vào chế độ phân phối bình quân. XHCN dựa trên nền tảng coi trọng lao động, rằng lao động tạo ra xã hội loài người, tạo ra của cải và tạo ra cuộc sống ngày càng tốt hơn cho con người theo nghĩa nhân văn. Chính vì thế lao động là vinh quang, ai không lao động mà sử dụng của cải một cách bất hợp pháp do người khác làm ra là phi đạo đức. Quảng đại quần chúng lao động phải trở thành chủ nhân của xã hội và tự tổ chức lại dưới hình thức xã hội tự nguyện, bình đẳng, bác ái, dân chủ. CNXH như vậy mãi mãi là khát vọng chân chính của loài người. Định hướngXHCN chính là con đường đúng đắn nhất để đưa khát vọng đó dần trở thành hiện thực trong cuộc sống. Song, mô hình nào để chúng ta có thể xây dựng được xã hội như thế ở một nước kinh tế còn đang phát triển với biết bao áp lực của thế giới TBCN bên ngoài và tính ích kỷ trong mỗi cá nhân chúng ta còn lớn? Lời đáp cho câu hỏi đó là chúng ta còn đang phải tìm tòi, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Dù mô hình kinh tế XHCN còn chưa được hiện thực hóa, dù trình độ phát triển kinh tế của chúng ta còn thua kém nhiều nước, nhưng không vì thế chúng ta lựa chọn con đường TBCN hy sinh quyền lợi của đa số người lao động, tích lũy của cải vào tay một tỷ lệ phần trăm nhỏ nhoi những người giàu có trong xã hội.

Trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam, đất đai không chỉ là một phạm trù kinh tế, mà còn thuộc phạm trù chính trị - xã hội, an ninh -quốc phòng; đất đai là nguồn lực cho sự phát triển đất nước…

Thứ ba, sở hữu toàn dân về đất đai ít ra cũng cho ta cơ chế để người lao động có quyền hưởng lợi ích từ đất đai một cách có lợi hơn, công bằng hơn và bình đẳng hơn. Điều này được lý giải bởi sở hữu toàn dân là sở hữu chung của người Việt Nam, hiểu theo nghĩa người Việt Nam là công dân của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Vấn đề là sở hữu chung nhưng sử dụng và quản lý theo một cơ chế cụ thể mà chúng ta đang bàn luận để xây dựng, nhằm có thể đạt được một lúc hai mục đích là hiệu quả và công bằng đối với người lao động. Không được xao nhãng mục tiêu công bằng, vì nếu để đạt được hiệu quả bằng cách hy sinh quyền lợi của đa số người lao động sao cho của cải làm ra nhiều hơn nhưng chui vào túi người giàu thì không phải là hiệu quả chúng ta mong muốn.

Thứ tư, về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguồn gốc của thực tế phức tạp hiện nay về đất đai. Thực trạng quản lý, sử dụng đất đai đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết bắt nguồn không phải từ bản chất vốn có của sở hữu toàn dân về đất đai, mà bắt nguồn từ sự yếu kém kéo dài trong việc không hiện thực hóa thiết chế thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; bắt nguồn từ hệ lụy yếu kém trong quản lý đất đai cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.

Luật đất đai năm 2013 và phương thức Nhà nước thực hiện Luật đất đai năm 2013 có nhiều điểm chưa hợp lý cần phải khắc phục. Vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay ở nước ta là ở chất lượng, thái độ thực thi Luật đất đai của cơ quan và công chức nhà nước chưa tốt, tồn tại quá nhiều trường hợp lạm dụng quyền lực công phục vụ cho mục tiêu riêng của cá nhân, của gia đình, của nhóm lợi ích cũng như cơ chế phân chia lợi ích từ đất chưa công bằng giữa các nhóm lợi ích khác nhau, giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Không khó để tìm ra những trường hợp cơ quan nhà nước thu hồi đất của dân không đúng đắn (Tiên Lãng, Hải Phòng là một ví dụ). Sự giàu có bất thường của các đại gia kinh doanh bất động sản trong nửa đầu thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI ở nước ta, mức chênh lệch quá lớn giữa giá đất đô thị trong các dự án chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất đô thị và giá đền bù cho người nông dân… là những bằng chứng hiển nhiên về phân chia lợi ích từ đất không có lợi cho người dân có quyền sử dụng đất khi bị thu hồi. Tình trạng quy hoạch bị điều chỉnh tùy tiện, quy hoạch treo, tình trạng đất thu hồi bị bỏ hoang còn người mất đất lâm vào tình trạng thất nghiệp, khó khăn…cho thấy quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu cần phải có trong chế độ sở hữu toàn dân.

Những vấn đề này không thể tránh né bằng cách chuyển toàn bộ quyền quản lý đó cho khu vực tư nhân thông qua tư hữu hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu đất đai. Ngược lại, chỉ có thể giải quyết tốt các vấn đề này bằng việc đẩy mạnh cải cách trong các cơ quan nhà nước, minh bạch hóa, công khai hóa cơ chế quản lý, sử dụng đất đai; siết chặt kỷ luật và trách nhiệm giải trình của công chức và chuyển giao cho người dân những quyền mà người sử dụng đất thực thi có lợi hơn cơ quan nhà nước. Một số những việc cần phải làm là hạn chế quyền thu hồi đất một cách tùy tiện của cơ quan nhà nước cho các mục đích “gọi là” dự án phát triển KT-XH phục vụ cho nhóm lợi ích nào đó, đồng thời làm bần cùng hóa nhiều người dân, khi họ không còn đất sản xuất. Giá đất thu hồi đất phải tính đến sự phân chia địa tô chênh lệch giữa xã hội (mà Nhà nước là đại diện), người có đất bị thu hồi và người nhận đất sử dụng cho mục đích mới. Nhà nước cũng phải nâng cao năng lực sử dụng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với tư cách công cụ quan lý vì lợi ích quốc gia.

Thứ năm, sở hữu toàn dân không phải là sở hữu nhà nước về đất đai.

Sở hữu toàn dân về đất đai là sở hữu chung của toàn dân, nhưng có sự phân chia việc thực hành quyền sở hữu giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Bản chất của cơ chế này là phân chia một cách hợp lý các quyền của chủ sở hữu đất đai giữa người dân và Nhà nước, cũng như giữa các cơ quan nhà nước các cấp.

Luật đất đai năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đã trao cho người dân khá nhiều quyền: sử dụng (theo quy hoạch của Nhà nước), chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp vay vốn, thừa kế, góp vốn…Về cơ bản, người dân đã có gần hết quyền của chủ sở hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất hiệu quả theo năng lực của họ. Một số hạn chế của quyền chủ sở hữu mà người sử dụng đất không có là: không được tùy ý chuyển mục đích sử dụng đất; hạn điền; thời gian giao đất hữu hạn; phải giao lại đất cho Nhà nước để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, mục đích công cộng. Tương ứng với mở rộng quyền cho người sử dụng đất, quyền của cơ quan nhà nước với tư cách đại diện cho toàn dân thống nhất quản lý đất đai trong cả nước được quy định trên các mặt sau: quy định mục đích sử dụng cho từng thửa đất (bằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); thu hồi đất phục vụ các mục đích an ninh, quốc phòng, mục đích công cộng; thu một số khoản dựa trên đất.

So sánh với luật đất đai của một số nước duy trì tư hữu về đất đai, quyền của người sử dụng đất của Việt Nam cũng không có chênh lệch đáng kể và quyền của Nhà nước cũng không quá nhiều. Điều này cho thấy không có sự khác biệt quá lớn về phương diện tạo quyền tự chủ cho người sản xuất kinh doanh sử dụng đất hiệu quả giữa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta và chế độ tư hữu đất đai ở nước khác. Ngược lại, hai chế độ này có xu hướng tiến tới một điểm chung khi Nhà nước trong các nước có chế độ tư hữu về đất đai can thiệp vào lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai để bảo vệ môi trường sống chung cũng như đáp ứng các yêu cầu chung của quốc gia, địa phương. Nói cách khác, ở những nước này có một chế độ tư hữu hạn chế về đất đai. Ở nước ta, xu hướng mở rộng quyền cho người sử dụng đất và giới hạn quyền của Nhà nước ở những mục đích bảo vệ môi trường sống chung và an ninh quốc gia cũng dẫn đến một chế độ sở hữu hạn chế của người sử dụng đất.

Thứ sáu, sở hữu toàn dân về đất đai đem lại nhiều lợi ích phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam. Không những không cản trở quá trình sử dụng đất hiệu quả ở phương diện vi mô của người sử dụng đất cũng như ở phương diện lưu chuyển quyền sử dụng đất trên thị trường bất động sản, chế độ sở hữu toàn dân còn đem lại nhiều lợi ích phù hợp với đặc thù của nước ta.

Cụ thể là: Chế độ sở hữu toàn dân nhấn mạnh quyền của người dân trong sử dụng quyền của mình để cùng nhau giải quyết các vấn đề bất đồng trong sử dụng và phân chia lợi ích từ đất. Với chế độ pháp quyền XHCN, người dân có quyền cùng nhau xây dựng Hiến pháp quy định về cung cách sống chung và quyền hạn của Nhà nước trong xã hội. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp, khi đa số công dân bị bất lợi trong phân chia lợi ích từ đất đai, họ có thể yêu cầu Nhà nước sửa Luật đất đai phục vụ mục đích chung của công dân, sửa chữa những mất công bằng trong phân phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ không cho phép đa số còn lại thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.

Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tránh cho xã hội chúng ta rơi vào tình trạng bất ổn do một số người có thể đòi hỏi xem xét lại các quyết định lịch sử về đất đai nếu như duy trì chế độ sở hữu tư nhân về đất đai. Với tuyên bố đất đai là thuộc sở hữu chung của mọi công dân Việt Nam được thực thi theo cơ chế Nhà nước được toàn dân ủy quyền cho việc giao đất cho hộ gia đình và tổ chức sử dụng (về cơ bản đã giao xong) và Nhà nước được ủy quyền quản lý đất đai bảo đảm quá trình sử dụng đất đai làm sao để lợi ích của người sử dụng đất đai thống nhất với lợi ích chung của quốc gia. Khi đó, không có vấn đề tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân. Việc giao đất hay cải cách quản lý của Nhà nước theo hướng mở rộng hơn nữa quyền của người sử dụng đất có lợi cho người lao động, nhất là có lợi cho nông dân, những người trực tiếp sử dụng đất với tư cách tư liệu sản xuất, chỉ là vấn đề tiếp theo của những quyết định đã có trong lịch sử, không phải là một cuộc đảo lộn lịch sử. Cách làm và quan niệm như vậy sẽ tạo được sự đồng thuận cần thiết của cả dân tộc trong bối cảnh nước ta còn không ít khó khăn hiện nay. Về mặt thực tế, duy trì sở hữu toàn dân trong điều kiện hiện nay là cách làm tốt nhất để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.

Quan hệ đất đai phải được hoàn chỉnh dần theo tiến trình lịch sử, trong đó quyền của người lao động được tiếp cận đất phải được ưu tiên bảo vệ. Hiến pháp và Luật đất đai có thể sửa đổi, nhưng vận mệnh của dân tộc tiến đến một xã hội giàu có và công bằng cho người lao động, thì không thể thay đổi.

Thứ bảy, đất đai là tài sản chung của dân tộc nên không cho phép Chính phủ hay chính quyền địa phương chuyển nhượng cho người nước ngoài một cách tự do như đối với công dân Việt Nam. Nếu không quy định những điều kiện chặt chẽ về sở hữu đất, nhất là đất sản xuất của người nước ngoài, nếu chúng ta thừa nhận sở hữu tư nhân đất đai và cho phép người nước ngoài thỏa thuận mua bán đất với tư nhân, thì nguy cơ mất nước từ hệ lụy của nền kinh tế thị trường sẽ thành hiện thực và thành quả đấu tranh kiên cường để giành độc lập của dân tộc ta sẽ có nguy cơ bị triệt tiêu bởi thế lực của đồng tiền.

Cần phân chia quyền mà sở hữu đất đai có được, trên cơ sở sở hữu toàn dân về đất đai, một cách hợp lý giữa người dân và cơ quan nhà nước. Theo đó, đối với diện tích đất dùng chung, không ai, tổ chức nào được phép sử dụng riêng vì lợi ích của họ. Nhà nước, với sự ủy quyền của xã hội phải đảm bảo sự tuân thủ đó. Có nghĩa là cơ quan nhà nước cũng không được tùy ý sử dụng hoặc giao cho ai đó sử dụng mà không đúng các quy định trong Luật đất đai là đất dùng chung. Đối với những diện tích đất được sử dụng chung cho một cộng đồng có tính địa phương (như công viên cây xanh, đường nội bộ…) giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương quản lý chỉ để dùng chung ở cộng đồng dân cư đó, chính quyền địa phương không được phép giao diện tích đất dùng chung đó cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào sử dụng vì mục đích riêng của họ. Đất công sở được giao cho các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, tổ chức đoàn thể,… và chỉ được sử dụng cho mục đích cung cấp dịch vụ công. Nếu cơ quan nhà nước,… không có nhu cầu sử dụng đất công đó thì phải giao về cho quỹ đất công được sử dụng theo những quy định phù hợp với ý nguyện của dân chúng được ghi trong Luật đất đai (dự trữ cho hoạt động công hoặc chuyển giao cho các bộ phận dân cư sử dụng). Cơ quan nhà nước không có quyền bán đất công theo giá thị trường, trừ trường hợp chuyển giao cho dân cư và thu hồi tiền về ngân sách nhà nước.

Đa phần diện tích đất sản xuất và đất ở người dân giữ lại (chứ không phải Nhà nước giao cho dân chúng như cách hiểu hiện nay) cho mình hầu hết quyền của người sở hữu như chiếm giữ, sử dụng, giao dịch trên thị trường đất đai, thế chấp và thừa kế. Đây là quyền hoàn toàn chính đáng trong khái niệm “sở hữu toàn dân”bởi người dân là chủ thể chính chứ không phải Nhà nước. Người dân giữ lại cho mình đa số quyền, chỉ giao lại cho Nhà nước một số quyền hạn chế (trong chế độ nhà nước pháp quyền, nhà nước là công cụ của người dân chứ không phải thể chế đứng trên người dân. Nhà nước phải hoạt động theo luật pháp mà nhân dân, thông qua những tổ chức của mình, xây dựng nên). Nhân dân giao lại cho Nhà nước những quyền như: Quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch tổng thể sử dụng đất đai để cho hoạt động sử dụng đất đai của từng cá nhân và tổ chức không làm giảm hiệu quả sử dụng đất đai chung của quốc gia. Nhà nước phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch và giám sát tuân thủ quy hoạch, kế hoạch cho tốt. Quyền bảo vệ đất đai và môi trường để ngăn cản những hành vi vụ lợi cá nhân của người dân làm tổn hại lợi ích chung. Quyền bảo hộ quyền chính đáng của dân cư đối với đất đai đã được quy định theo luật. Quyền bảo toàn lãnh thổ quốc gia trước các hành vi xâm phạm của nước ngoài. Tất nhiên, người dân phải cung cấp tài chính qua thuế cho Nhà nước để duy trì các hoạt động của mình…

Với cách hiểu như trên, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là một “phạm trù, thuật ngữ lý thuyết, trừu tượng thuần túy, không có giá trị thực thi”, càng không phải là sự giáo điều, cố gắng du nhập từ Liên Xô vào Việt Nam như một số học giả to tiếng trên một số diễn đàn.

Sở hữu toàn dân về đất đai là điều kiện nền tảng để người lao động Việt Nam có cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích của chính mình. Những sai lầm của chúng ta, khi giao quyền quá lớn cho bộ máy nhà nước, nhất là cho chính quyền địa phương đã dẫn đến các hiện tượng lạm dụng quyền này vì lợi ích cá nhân, vì lợi ích nhóm trá danh lợi ích địa phương, đất nước, xâm phạm quyền của công dân đối với đất đai và phân chia lợi ích từ đất đai không có lợi cho người lao động (nhất là không có lợi cho nông dân, những người giữ quyền sở hữu đất chính đáng)…

Sở hữu toàn dân tạo điều kiện để Nhà nước XHCN bảo vệ lợi ích của người lao động tốt nhất. Những sai lầm và thiếu sót của cơ quan nhà nước thời gian qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nướcXHCN và có thể sửa chữa được. Vấn đề là chúng ta phải thực sự xây dựng được thiết chế kiểm soát để Nhà nước ta phải hành động như Nhà nước XHCN. Có hai thiết chế đảm nhận nhiệm vụ này là Đảng Cộng sản và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân. Đảng Cộng sản lãnh trách nhiệm là lực lượng tiên phong của những người lao động phải hành động như một tổ chức giám sát Nhà nước hiệu quả nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của quảng đại người lao động - cơ sở xã hội và lực lượng hỗ trợ sự giám sát của Đảng.

Đặc biệt, Hiến pháp và luật pháp phải quy định quyền của người dân về tiếp cận thông tin về đất đai, về các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai để người dân thực thi quyền giám sát. Ở đây không nên hiểu là Nhà nước ban phát thông tin cho người dân. Ngược lại, với tư cách công bộc của dân, Nhà nước có nghĩa vụ và trách nhiệm cung cấp thông tin để báo cáo với người dân (thông qua các cơ quan truyền thông đại chúng và Quốc hội) để người dân có cơ sở hiện thực giám sát hoạt động của Nhà nước.

Tóm lại, cần thống nhất quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai giao cho Nhà nước thống nhất quản lý, nhưng phải tiếp cận một cách hiện thực theo những quyền mà sở hữu đất đai có được (cũng cần nhấn mạnh rằng, các quyền này không cố định một cách cứng nhắc mà có thể thay đổi theo thời gian cũng như tính năng của đối tượng sở hữu) và phân chia quyền đó một cách hợp lý giữa người dân và cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng hiệu quả phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hài hòa lợi ích giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng đất đai./.

PGS.TS. Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

             

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất